Cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ 2022 - 2024 có mười truyện ngắn được trao giải, trong đó giải cao nhất là giải Nhì thuộc về truyện ngắn Bờ sông lặng sóng (Vũ Ngọc Thư) và Trăm Ngàn (Ngô Tú Ngân). Mỗi sáng tác đều góp phần thể hiện những lát cắt của văn học Việt Nam đương đại, phần nào nói lên một số địa hạt mà các tác giả lưu tâm trong bối cảnh ngày nay. Bài viết này là trải nghiệm đọc của cá nhân người viết, từ đó đưa ra một số bàn luận về vấn đề chung mà các tác phẩm thể hiện khi đặt chúng trong mối tương quan với nhau. Thứ nhất là đề tài về thế giới tuổi già, về cái cách mà các nhân vật đối diện với ẩn ức, sự đè nén, sự khó khăn trong giao lưu cảm xúc; thứ hai là đề tài chiến tranh, những khoảng trống nào còn có thể được khơi mở; thứ ba là sự đa dạng trong thân phận các nhân vật, cùng niềm đau đáu chung của họ trước vấn đề căn tính, nguồn cội.
Chủ đề về tuổi già thường đưa tới những câu hỏi về ý nghĩa cuộc sống, rằng sau bao nhiêu năm tháng của tuổi trẻ, từng xoay vần trong vòng tròn giữa cái có được và cái mất đi, ngỡ tưởng đã hiểu được hết mọi biến cố có thể xảy đến, liệu các nhân vật đã viên mãn mà vui sống hay chưa? Hay trong thân xác già nua, họ vẫn đang phải đối mặt với tiếc nuối, cô độc và sự không thỏa mãn về tình cảm. Truyện ngắn Đất ao (Đào Quốc Vịnh) nói về những bất cập của kế hoạch giao đất giãn dân. Khi không còn đất, người ta nghĩ ra kế lấy đất ao thay đất ruộng. Lão Hoạch thậm chí còn lập hồ sơ giả cho ao của ông ngoại lão thành ao của vợ chồng nhà Bính Hoa, bởi thời còn trẻ dại, lão từng nảy sinh tình cảm với Hoa mà không thành. Lão cho rằng mối giao tình với Hoa, với những ham muốn da thịt còn hơn giao tình với họ hàng nhà lão, bởi lão chẳng đổi chác lại được gì từ họ. Kết quả của hành động ấy dẫn tới một loạt sự kiện làm tình nghĩa với gia đình, dòng họ rạn vỡ. Người đàn ông già nua phải đối mặt với tương lai cô độc vò võ phía trước. Song tình cảnh của lão không chỉ đem tới trăn trở về mối quan hệ giữa người với người, mà còn là mối quan hệ giữa con người và nơi chốn.
Một trong những tâm thức điển hình ở người già là suy nghĩ lá rụng về cội, thể hiện mối quan hệ gắn kết về mặt tinh thần giữa một người và vùng đất mà người đó sinh sống. Khi nhìn cảnh ao làng mênh mông hơn hai nghìn mét vuông bị san lấp bởi bê tông, trở thành sân chơi của trẻ em, lão Hoạch đã nghĩ: “chẳng ai có thể chiếm cái Ao Làng này được. Từ mấy trăm năm nay từ ngày thành lập làng đến giờ Ao Làng vẫn là của làng”. Ao làng mà lão Hoạch nhắc đến giống như một không gian của tâm tưởng hơn không gian của hiện thực, bởi sự thực rằng chính lão Hoạch là người dẫn tới sự phá bỏ của không gian ao làng. Nó tồn tại trong không gian của lớp người đi trước, liệu có tồn tại trong không gian sau này của những đứa trẻ, hay chúng sẽ chỉ nhớ tới không gian sân chơi với những con thú nhún bằng sắt, những xà ngang, xà dọc? Cái ý nghĩ cho rằng ao làng vẫn là của làng, dường như là sự tỉnh ngộ trễ nải rằng vốn dĩ nó không nên bị tước đoạt, bị san lấp bởi lòng tham. Con người mặc nhiên cho rằng mình sở hữu nơi chốn mà dùng chúng để trục lợi, chẳng mảy may nghĩ tới hệ quả có thể tới sau. Hình ảnh bóng lão Hoạch chìm vào trong ánh sáng xanh lét, mờ ảo của đèn đường thời khắc chập choạng tối không chỉ đem tới nỗi buồn về những tình cảm đã mất đi bởi ham muốn phù phiếm, hư ảo, mà còn âm vang cả tiếng khóc của không gian đã mất: những cánh đồng, vườn cây xanh ngát, rì rào của một thời xưa cũ ngày càng bị thu hẹp, giờ đây chỉ còn lại sắc xám trải dài của những ngôi nhà cao tầng chen chúc nhau. Con người già nua, cảnh quan bị hủy hoại, kết thúc của điều nào gây ra đau đớn và bẽ bàng hơn?
Ở một trường hợp đối ngược với lão Hoạch trong Đất ao là ông Cấn trong Thư viện người (Lê Văn Thân). Đây là truyện ngắn duy nhất trong chùm truyện đoạt giải lấy bối cảnh của đời sống thành thị. Ông Cấn nghe theo lời khuyên của vợ chồng con trai mà bán đất, từ quê lên sống cùng hai con để “an dưỡng tuổi già”. Song mỗi ngày của ông đều trôi qua trong buồn tủi, cô quạnh, khi cả con trai và con dâu đều mệt mỏi và áp lực với đời sống. Họ không có đủ kiên nhẫn để quan tâm đến sức khỏe tinh thần của ông. Lê Văn Thân kiến tạo được hai không gian vừa tồn tại song hành, vừa phát sinh mâu thuẫn với nhau khi nhân vật rơi vào khủng hoảng là không gian của sở thú (nơi hiện thân của tuổi già, điềm báo về cái chết, không chỉ là cái chết về mặt thể xác mà còn là cái chết xã hội khi không được ai cần đến: “một lũ ngựa già rồi chết trong sở thú, người quản lí là một ông lão. Chả ai quan tâm tới cái chết của những chú ngựa, cũng như chả ai thấy nước mắt người quản lí già rỉ ra nơi hốc mắt. Tất cả đều đơn độc khi về già”) và không gian của thư viện người (nơi những thân phận đầy rẫy tổn thương, bị gạt ra bên lề được tìm đến, được chia sẻ câu chuyện cuộc đời họ với những độc giả, để họ cảm thấy mình còn được cần tới, được phần nào nguôi ngoai cơn thèm người).
Ông Cận là người từng mang quan điểm lá rụng về cội, rằng “Có chết cũng chết trên mảnh đất này”. Suốt cuộc đời ông gắn liền với mảnh đất quê hương, việc bị tách rời khỏi nó không khác gì mất đi một phần da thịt, dường như ông phải quay trở lại làm một đứa trẻ trước mọi sự mới lạ của thành thị… Nỗi đau của những đứa trẻ già lại là điều mà thế hệ sau khó lòng thấu hiểu. Song chính tâm thức này khiến kết thúc của truyện trở thành một điểm sáng, bởi sự mất tích của ông Cận khiến người ta ngỡ tưởng rằng ông trở về quê nhà, trở về với miền trời cũ mà ông từng gắn bó cả đời, thì điểm đến của ông Cận lại là thư viện người: một vùng không gian mở ra cho những thân phận bên lề, lạc lõng trong đời sống đương đại. Ngã rẽ mới được mở ra từ đây. Nhưng để đạt được tới nó, người ta buộc phải phá vỡ những điều mình hằng tin vào, và có đủ dũng cảm để một lần nữa vật lộn, tìm kiếm nơi mình thuộc về khi đã đi tới trườn dốc bên kia cuộc đời.
Thế giới tuổi già không chỉ gắn liền với cảm giác thèm người, của những gam màu đìu hiu, rệu rã. Ở một điểm nhìn khác, nó còn có thể miêu tả như một bức tranh tràn đầy sắc màu của rượu, của tình, của hoa như trong Rượu hoa mất trí (Như Bình). Như Bình đã tái hiện không gian văn hóa giàu chất thơ của bản Mường Hum, Lào Cai thông qua cuộc đời bà Sa, người đàn bà mê dệt vải thêu váy, nghiện chưng rượu hoa. Chẳng mấy người hay biết mối tình si bà dành cho người Thào Mông từng vô tình gặp gỡ trong phiên chợ tình đã rực cháy cho đến tận những giây phút cuối cùng của đời bà. Ông Si nói rằng bà đã quá già rồi, bà chẳng còn là cô gái tuổi mười sáu, đã sinh con đẻ cái mà sao vẫn nhớ mãi duyên xưa, như nhớ một thời trăng tròn, một thuở xuân sắc như những bông Lềnh si đỏ tựa máu tươi nhỏ giọt. Liệu tuổi tác của con người có quyết định cho cái chết của tình yêu, ham muốn, cảm giác được người khác cần mình, thấu hiểu mình hay không? Nhân vật bà Sa đem đến một hình tượng rất khác về hình dung của tuổi già, từ đó mà đem đến câu hỏi về tư thế con người ta muốn đạt được khi đối mặt trước sự chảy trôi tàn khốc của thời gian. Phải chăng dẫu chọn lựa trốn tránh hay truy đuổi tới cùng, chúng đều là những hành động mang phần quá cực đoan. Nhưng ở hồi kết, đối với thân phận một con người đã sống thỏa thuê, chìm đắm trong sự thăng hoa tới mức mọi mùa xuân đều bung nở rực rỡ như thế, đánh giá về nên hay không nên có lẽ chỉ phụ thuộc vào bản thân mỗi người.
Từ những truyện ngắn kể trên, có thể thấy viết về tuổi già là một đề tài có rất nhiều hướng tiếp cận trong văn chương đương đại. Cùng với sự đổi thay không ngừng của đời sống, ta sẽ luôn phải đối mặt với tầng tầng lớp lớp những mâu thuẫn và nghi vấn. Căn tính của con người thường được gắn liền với một nơi chốn, vậy khi nơi chốn ấy bị biến đổi, bị tàn phá, con người sẽ đổi thay ra sao; tình cảnh lạc lõng trong không gian đô thị, làm thế nào để người già có thể bắt nhịp được với guồng chảy tất bật của đời sống hiện đại; cuối cùng là sự lựa chọn về mặt tâm thế, ta sẽ leo lắt như một ngọn nến luôn chực chờ sắp tắt, hay cháy bừng lên trong khoảnh khắc ngắn ngủi… Sáng tác về thế giới người già không chỉ đem đến góc nhìn đặc biệt về thân phận con người, mà còn mang tính thời sự bởi nó gắn liền với những chuyển biến phức tạp của xã hội.
Nhi thư (Hà Đình Cẩn), Tiếng vọng (Vương Đình Khang) và Bờ sông lặng sóng (Vũ Ngọc Thư) đều viết về đề tài chiến tranh. Nhi thư lấy bối cảnh chủ nghĩa Lam Sơn, xoay quanh nhân vật hư cấu là nàng Trịnh Thị Khánh - con tri trấn miền biên viễn Kỳ Hà. Nàng đầu quân vào chủ nghĩa Lam Sơn, xem như học trò thân cận theo Nguyễn Trãi, về sau kết duyên với tướng quân Nguyễn Xí. Song trong một lần bao vây đồn Bồ Đằng, nàng rơi vào tay quân giặc, cuối cùng bị xử tử bằng hình phạt thiêu sống trên tường thành. Nguyễn Xí vốc than có máu xương của vợ trát lên mặt, dẫu lòng căm hận, đau đớn khôn nguôi vẫn đặt vận nước lên trên ân oán cá nhân. Tất cả dồn nén chỉ vung lên thành một nhát gươm chém lên gốc đại thụ, từ vết chém ấy mà thành dòng nhựa trắng như sữa. Nhi thư có thể xem là một bản hùng ca của thời đại, tất cả các nhân vật đều đặt vận mệnh đất nước, dân tộc lên hàng đầu. Hình ảnh nàng Trịnh Thị Khánh thông minh, kiên cường, song trong thời khắc bị quân giặc tra tấn, nàng vẫn cất tiếng ru theo điệu xưởng về tuổi thơ thay mẹ giữ em, về hoàng hôn ráng đỏ quê hương, càng làm người ta đau đớn về những phận người đã ngã xuống để bảo vệ độc lập dân tộc.
Viết về lịch sử không phải một đề tài mới lạ, song dù có bao nhiêu tác phẩm ra đời, ấy vẫn là một địa hạt với muôn trùng khó khăn. Trong khi phải tái hiện được bối cảnh rối ren của thời đại, người viết còn phải quan tâm đến những chi tiết nhỏ lẻ của đời sống. Hơi thở của nhân vật không chỉ nằm trong các khúc ngoặt chuyển giao lớn gắn liền với không gian cộng đồng, mà còn cả trong cách họ đối diện với đời sống thường ngày, với những tình cảm, ẩn ức, ham muốn riêng tư. Lời ca ngợi, ngưỡng vọng đức tính tốt đẹp một chiều chỉ mang đến hình dung về khoảng sáng.
Nói về khoảng xám với những ẩn ức, góc khuất trong đề tài viết về chiến tranh, có lẽ dễ dàng quan sát hơn trong những sáng tác lấy bối cảnh thời hậu chiến - một thời đại khó lòng phân định ai là người tốt, ai là kẻ xấu, nhưng sự tổn thương mà cuộc chiến để lại vẫn giằng xé những người còn sống. Các nhân vật chẳng thể đổ lỗi cho ai về cơn bão đã quét qua, đã tàn phá cuộc đời mình. Trong Bờ sông lặng sóng (Vũ Ngọc Thư), người chồng trở về từ cuộc chiến, biết rằng vợ mình đã đi bước nữa, đã có thêm một đứa con trai với người đồng đội năm xưa. Ông không thể trách vợ bởi đơn vị cũ tưởng rằng ông bị chôn vùi trong loạt bom, để rồi gửi giấy báo tử về. Chi tiết nghệ thuật thể hiện được toàn bộ bầu không khí của Bờ sông lặng sóng là chi tiết người cha dắt con gái bỏ đi, song dẫu vòng vèo thế nào, ông cũng vẫn cứ đưa con quay trở lại ngõ nhà, tới mức người cha sợ hãi không dám cất bước nữa. Hai cha con chỉ còn cách ngồi ôm nhau, tựa vào góc cổng làng đợi trời sáng để có thể lên một chuyến xe, dứt khoát đi hẳn khỏi ngôi làng khiến người ta tự hỏi rằng kể cả khi cuộc chiến đã kết thúc, tại sao dư âm của nó vẫn trở đi trở lại với người lính, giống như cách anh ta đã trở đi trở lại với mái ấm đã mất.
Những nhân vật trong Bờ sông lặng sóng đều là những con người chung một mặc cảm cô nhi, kể cả là nhân vật cô con gái Nhung, dù cha và mẹ đều còn sống song biến cố chia cắt khiến hạnh phúc gia đình của cô luôn chỉ còn một nửa. Cô nhi bởi không còn biết nơi mình thuộc về là ở đâu, không biết tại sao một đoạn lịch sử đã khép lại, những người khác đã tiến đến một thời đại mới, người ta vẫn thấy mình lầm lũi không sao vượt qua sang chấn mà cuộc chiến để lại. Dòng sông bàng bạc đang trôi êm nhẹ kia có thực sự lặng sóng không, hay nhân vật chỉ nhìn nó như thể đang nhìn một tấm gương phản chiếu lại lòng mình, tin rằng nó lặng sóng như tin rằng mình có thể bỏ lại đau thương mà bước tiếp.
Một tờ giấy báo tử nhầm là điều không ai mong muốn, cũng giống như những hồ sơ mật trong hầm chứa ở quân khu cũ, là bằng chứng chứng minh thân phận của những người chiến sĩ nằm vùng, lại phải mất rất nhiều năm mới được tìm thấy như trong Tiếng vọng (Vương Đình Khang). Người mẹ kiên trì ngày qua ngày nộp đơn xin truy phong liệt sĩ, để rồi khi nghe được lời nhắn con trai để lại trong máy cassette cũ, bà mới dừng làm đơn: “Bà trả lời, thôi, tui biết con tui nó thương tui, thương quê là được. Tui biết chắc nó là thằng có tình mà! Vậy là đủ rồi, không cần danh phận chi nữa hết”. Bóng người đàn bà ngồi trên cục đá dưới bóng tre, ngó ra sông Đình mà không nói lấy một lời, trong hình ảnh ấy là bao nhiêu nỗi nhớ và xót xa người mẹ hướng về con. Phải chăng khi đã đau đớn đến tận cùng, những con người của đất nước mình chỉ có thể luôn nín lặng mà nhìn về sông, về núi? Viết về lịch sử, về chiến tranh có lẽ là một cách để hiểu, một cách để tưởng nhớ. Nhưng sự xoa dịu không chỉ xuất phát từ bờ của sự sống đến bờ của cái chết, mà những người đã hy sinh vẫn luôn tồn tại trong một miền ký ức êm ả của tình thương, chính những ký ức ấy lại là nguồn sức mạnh để những người còn sống tiếp tục kiên cường hướng về phía trước.
Con người của thời đương đại luôn loay hoay với vấn đề về căn tính. Sự phức tạp mà câu hỏi này đặt ra là con người ta luôn trong trạng thái mơ hồ cảm nhận được sợi dây nối mỏng manh giữa mình với một điều gì đó (có thể là một vùng đất, một con người, một ý niệm, một giấc mơ…), nhưng họ không tài nào làm rõ hay chạm tay được tới nó. Khao khát được yêu thương, được thấu hiểu vốn tưởng chừng là những điều giản đơn cũng không thể thành hiện thực, từ đó, người ta càng lạc lối trong thế giới nội tâm đầy rạn vỡ của chính mình. Mười truyện ngắn tái hiện vô số mảnh đời khác nhau, mỗi nhân vật đều đang chật vật tìm kiếm điểm tựa giúp họ neo đậu với cuộc đời sau những biến cố. Họ là hiện thân của những kiểu người khác nhau trong xã hội, với biết bao ẩn ức, góc khuất, ham muốn không được kể thành lời. Là người đàn ông suốt đời chỉ có thể đóng vai lính quèn xấu xí trong gánh hát lô tô (Trăm Ngàn - Ngô Tú Ngân), người thầy giáo cô độc ở vùng cao dạy học (Núi vỡ - Lữ Hồng), nhóm thanh niên làm công việc đi đãi vàng đầy hiểm nguy, trắc trở, để rồi sau đó người chết, người vướng vòng lao lý (Miền xa ngái - Phạm Xuân Hùng), người thiếu nữ mà cuộc đời gắn liền với đời sống tâm linh của cây hoa gạo, hoa gạo nở đỏ ối một góc trời tựa sắc máu, như điềm báo khóc thương cho sinh mệnh kết thúc ngay trước khoảnh khắc chạm tay được tới hạnh phúc (Cây gạo ở chợ chiều - Cầm Thị Đào)...
Đọc thêm: Các tác phẩm đoạt giải truyện ngắn Báo Văn Nghệ
Trong Trăm Ngàn (Ngô Tú Ngân), nhân vật chính Trăm Ngàn đã ở độ tuổi ngoài năm mươi, suốt đời ông theo đoàn hát trôi nổi khắp nơi, dù tới đâu, Trăm Ngàn cũng cố gắng tìm kiếm tin tức của mẹ. Là kết tinh của một mối tình lỡ dở bởi không môn đăng hộ đối, Trăm Ngàn bị tách khỏi mẹ ngay từ khi mới sinh, rồi lớn lên trong sự hắt hỉu, phân biệt đối xử của những người thân đằng nội. Ngô Tú Ngân chỉ đặc tả kỹ hai mốc thời gian là khởi đầu (thơ ấu ra sao mà quyết định theo đoàn hát) và kết thúc (ở độ tuổi xế chiều, mắc bệnh chẳng còn sống được bao lâu, Trăm Ngàn cùng đoàn hát quyết định trở về quê nhà ông, nhưng ông lại qua đời trước khi kịp đặt chân lên bến cũ), như chính người viết cũng đã nói về quỹ đạo của cuộc sống tựa một vòng tròn. Diễn biến ở giữa chỉ là một màn sương trắng mịt mù. Hành trình tìm kiếm mẹ dường như không phải là hành trình tìm kiếm một nhân dạng cụ thể, khi được lồng ghép vào hành trình của gánh lô tô kia, sống cuộc đời “xướng ca vô loài”, ba chìm bảy nổi, con người chỉ đang đi tìm kiếm cho mình một ảo vọng xoa dịu vết thương thời thơ ấu. Sự lựa chọn về lát cắt thời gian để kể đem tới một cái nhìn tréo ngoeo về nhân vật chính, bởi cách viết của Ngô Tú Ngân đưa đến hình dung rằng Trăm Ngàn mang dáng vẻ như thể mãi là một đứa trẻ nhỏ, một cô nhi còn đương thuở bơ vơ. Người ta khó lòng nhìn ra sự khác biệt trong phát triển tâm lý nhân vật ở hai mốc thời gian khởi đầu và kết thúc đã nói ở trên. Hay giả hoặc như trong dòng chảy của chấn thương, của những ám ảnh và vụn vỡ, thời gian tâm lý và thời gian hiện thực là hai dòng chảy vốn chẳng hề trùng khớp.
Sự dứt áo ra đi của Trăm Ngàn khỏi quê hương mà trong lòng vẫn hoài đau đáu về nó, có lẽ cũng là số phận tương lai của người thầy giáo lập dị trong Núi vỡ (Lữ Hồng). Không ai biết người thầy giáo đã ngoài bốn mươi đó quê quán ở đâu, mọi người trong làng chỉ truyền tai nhau rằng hắn là kẻ tằn tiện, mặt rỗ, không ai thèm lấy. Nỗi đau kép ở nhân vật người thầy giáo đó là một mặt, anh ta là kẻ thiếu thốn tình thương, sự sẻ chia của đồng loại, đây là nỗi đau cá nhân. Nhưng nỗi đau thứ hai là nỗi đau cùng mang với những đứa trẻ của làng Nung như bé Vôn đã chết trên đường đi gùi măng, nỗi đau cùng những phận đời cô nhi, không nơi nương tựa, để rồi bỏ mạng bi thảm nơi núi rừng như cây non tự chết: “Hắn cố tin một niềm tin sau cuối, rằng mình vô can. Núi đã tự cắt đau. Vôn và những đứa trẻ của làng Lung như cây non tự chết và Thương đã tự quay về chính nơi cô ra đi. Trả hết. Trả hết lại từ đầu. Hắn chấp nhận mỗi giấc mơ là không thể nào xua khỏi”. Người ta yêu thương mảnh đất ấy và muốn bám trụ lại nó, nhưng số phận đã định sẵn những đày ải, để rồi chỉ có thể trốn chạy như một kẻ bị lưu đày. Song rời đi nào có đồng nghĩa với lãng quên?
Một trong những hình ảnh kết thúc Núi vỡ là tờ giấy mỏng màu vàng mơ người ta dùng để viết thư, từ đâu mắc vào giữa những bụi gai ven đường. Nó mắc lại như những tâm tình chưa thể trao gửi, hay thậm chí còn chẳng thể viết ra, nhưng suốt đời, người ta vẫn hoài đau đáu. Cả Trăm ngàn và Núi vỡ đều kể về những kiếp người tưởng chừng lỡ dở, nhưng vẫn lóe sáng những khoảnh khắc rực rỡ của tình người, của sự đồng cảm, yêu thương và xót xa người ta trao nhau dù phận mình cũng đầy buồn tủi. Là nỗi tiếc nuối của người thầy giáo khi không thể dúi vào tay học trò nhỏ của mình một chiếc kẹo, những người xung quanh tưởng rằng hắn gàn dở, nhưng không ai biết trong lòng hắn nặng tình cảm và khao khát được sẻ chia hơn bất kỳ ai. Là cách mà đoàn hát chỉ toàn những kẻ bị ruồng bỏ, nhưng vẫn đùm bọc, yêu thương nhau hơn cả gia đình ruột thịt của mỗi người. Trong Trăm ngàn, chính tình người ở đoàn hát là điều đã níu giữ lại sự trong trẻo, khao khát yêu và được yêu tới phút cuối cùng chẳng lụi tắt của Trăm Ngàn.
Hình dung về mười truyện ngắn được trao giải của Cuộc thi truyện ngắn báo Văn nghệ 2022 - 2024 trong cái nhìn tổng thể giống như quan sát kính vạn hoa, là quan sát những hình thù kỳ diệu, những mảng ánh sáng và hình khối khác nhau. Nói như vậy không có nghĩa là hết thảy đều toàn vẹn, vẫn còn những lối mòn, những khuôn sáo, những hình mẫu quen thuộc dễ dẫn đến sự nhàm chán nơi bạn đọc. Song dù là vấn đề về tuổi già, chiến tranh, hay truy tìm căn tính thì những truyện ngắn này đều hướng đến thân phận con người với một tinh thần nhân văn cao cả. Những truyện ngắn được giải báo Văn nghệ năm 2024 nhận được nhiều ý khiến khen chê trái chiều nhưng tôi tin rằng tất cả những lời khen, chê khách quan từ phía độc giả chắc chắn sẽ là động lực giúp cho các cây bút ngày một hoàn thiện hơn trong sáng tạo.