Niềm hạnh phúc, hân hoan ấy đã biến thành hành động, trong đó những người trí thức đã sớm nhận ra vai trò của mình, cùng chính quyền non trẻ của Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng đất nước. Trong bầu không khí sục sôi của cách mạng, thật dễ hiểu khi nhiều trí thức, trong đó có các kiến trúc sư thế hệ đầu tiên của nước nhà đã tự nguyện từ bỏ “tháp ngà” để đến với cuộc đời rộng mở, với quần chúng cần lao. Chỉ có thể là tình yêu nước và niềm tự hào dân tộc, để từ Quảng trường Ba Đình lịch sử, họ viết tiếp những câu chuyện với hoài bão dựng xây, kiến thiết nước Việt Nam mới.
|
Năm 1924, Trường Mỹ thuật Đông Dương ra đời và tuyển sinh khóa đầu tiên vào năm 1925 chuyên ngành Hội họa. Với khoa Kiến trúc, nhà trường tuyển sinh từ năm 1926 (Nghị định của Toàn quyền Đông Dương ngày 1-10-1926), với vai trò cơ sở đào tạo kiến trúc sư của Pháp duy nhất ở nước ngoài. Theo tài liệu của KTS Đoàn Đức Thành: “Trong 20 năm (1925-1945), Trường Mỹ thuật Đông Dương sau này là Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương đã tổ chức đào tạo được 18 khoá học (trong đó 11 khóa có sinh viên kiến trúc), đã đào tạo tốt nghiệp trên 150 sinh viên ngành Mỹ thuật và trên 77 sinh viên ngành Kiến trúc, có trình độ vững vàng, được học tập theo chương trình giảng dạy và phương pháp đào tạo khoa học của Trường Mỹ thuật Quốc gia Paris ở Pháp.” Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, các sinh viên kiến trúc đã tham gia vào những cuộc thi sáng tác kiến trúc, phục vụ đời sống dân sinh. Những thiết kế của họ ban đầu chịu ảnh hưởng từ các thầy người Pháp nhưng sau đó, khi tư tưởng sáng tác đã định hình, họ bắt đầu tìm hiểu sâu và kế thừa truyền thống, cội nguồn dân tộc, từ đó có những thiết kế gần gũi, thiết thực, giản dị hơn. Nổi lên trong số các sinh viên kiến trúc tốt nghiệp Trường Mỹ thuật Đông Dương là bộ ba KTS: Nguyễn Cao Luyện, Hoàng Như Tiếp và Nguyễn Gia Đức. Họ đã mở văn phòng kiến trúc đầu tiên tại Hà Nội, với những công trình để lại dấu ấn như: KTS Nguyễn Cao Luyện thiết kế biệt thự 65 Lý Thường Kiệt, 77 Nguyễn Thái Học, 215 Đội Cấn, 7 Thiền Quang… KTS Hoàng Như Tiếp có biệt thự 14 Phạm Đình Hổ. KTS Nguyễn Gia Đức có biệt thự ở phố Hàng Đẫy, Bình Minh trang ở khu Quần Ngựa… Cách mạng tháng Tám thành công mang đến một tâm thế mới cho cả dân tộc, trong đó có các KTS thế hệ đầu tiên của nước nhà, cùng bắt nhịp với đời sống mới, với sức trẻ và tài năng đã đóng góp cho cách mạng những công trình thật sự có ý nghĩa to lớn.
![]() |
| Bản vẽ “Lễ đài độc lập trên Quảng trường Ba Đình” (1945) do KTS Ngô Huy Quỳnh thiết kế. |
Dựng Lễ đài độc lập là một phần công việc quan trọng cho buổi lễ ra mắt quốc dân đồng bào của Chính phủ lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa diễn ra buổi chiều ngày 2/9. Chỉ trong 4 ngày, với khối lượng công việc đồ sộ, ông Nguyễn Hữu Đang, lúc ấy đang công tác tại Bộ Thông tin và Tuyên truyền được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao nhiệm vụ quan trọng nhưng vô cùng khó khăn này. Theo thông tin từ Trung tâm Lưu trữ quốc gia 1, ngay sau khi ông Nguyễn Hữu Đang đăng thông báo trên tất cả các báo hàng ngày, trang nhất với hàng tít thật lớn, chỉ ngày hôm sau “hội quán Trí Tri chật kín người tham gia và cho mượn những thứ cần thiết”.
|
KTS Ngô Huy Quỳnh (khoa Kiến trúc khóa 1938-1943, Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương) đã xung phong khảo sát vườn hoa Ba Đình và vẽ bản thiết kế và chỉ huy xây dựng lễ đài. Họa sĩ Lê Văn Đệ (thủ khoa khóa 1 Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, tốt nghiệp năm 1930) nhận trang trí lễ đài. Lụa bọc lễ đài do bà con phố Hàng Ngang, Hàng Đào, các chủ tiệm vải ủng hộ nhiệt tình. Còn gỗ có sự ủng hộ, đóng góp không nhỏ của gia đình họa sĩ Trịnh Hữu Ngọc, ông chủ xưởng gỗ và thiết kế nội thất Memo trên phố Hàng Bông Thợ Nhuộm (bạn của KTS Ngô Huy Quỳnh).
Trong cuốn Ba phút sự thật, nhà văn Phùng Quán từng nhận xét: Lễ đài độc lập làm trong 48 tiếng và sau đó dỡ bỏ nhưng “...tầm vóc và hình dáng cùng với tổng thể kiến trúc của nó đã tạc khắc đời đời vào kí ức của cả dân tộc. Lễ đài độc lập là cột mốc giữa đêm dài trăm năm nô lệ và bình minh độc lập tự do của dân tộc. Số phận của dân tộc thay đổi kể từ đó.” Nhà sử học Dương Trung Quốc nhận định: “Nhà nước về đây trong thời gian rất ngắn, có bao nhiêu việc còn bề bộn. Ngay cả Hà Nội lúc ấy cũng bề bộn với nạn đói và nhiều thứ khác… mà chúng ta làm được lễ đài, phát huy được vai trò của người dân Hà Nội với cách mạng, với thiết kế cực kì đơn giản, không quá tốn kém, làm rất nhanh nhưng đẹp, trong đó có vai trò của kiến trúc sư Việt Nam. Người ta cho rằng kiến trúc là nghề nghiệp cao quý, khó khăn, phải là người chính quốc mới làm được. Nhưng dần dần những họa sĩ Việt Nam đã tham gia công việc đó, tất nhiên trong đó có những kiến trúc sư, nhà mỹ thuật người Pháp góp công đào tạo nên những thế hệ kiến trúc sư đầu tiên.”
Trong cuốn sách Hà Nội nửa đầu thế kỉ XX, tập 1, tác giả Nguyễn Văn Uẩn viết: “Buổi lễ ngày 2/9/1945, giữa quảng trường đặt một chiếc bục gỗ cao, chung quanh quấn vải, dán khẩu hiệu, trên bục có một cột cờ. Bục lễ đài chênh vênh giữa trời dưới ánh nắng chang chang tháng Tám ta (theo âm lịch). Khi Chủ tịch Hồ Chí Minh lên phát biểu, phải có người đứng sau che ô. Tuy nhiên, Quảng trường Ba Đình sau ngày Tuyên ngôn độc lập đã trở thành một địa điểm lịch sử, nơi khai sinh ra chế độ Dân chủ cộng hòa của nước Việt Nam. Nhiều người đã gọi nơi đó là Quảng trường Độc lập.” Với nhà báo, KTS Phạm Thanh Tùng, Ủy viên Ban Thường vụ, Chánh Văn phòng TƯ Hội Kiến trúc sư Việt Nam: “Lễ đài độc lập tại Quảng trường Ba Đình của KTS Ngô Huy Quỳnh là tác phẩm kiến trúc đầu tiên của nền kiến trúc cách mạng.” Còn tại Sài Gòn, các kiến trúc sư tài năng cũng đóng góp những công trình có ý nghĩa, với kỳ đài cao 15m do KTS Huỳnh Tấn Phát thiết kế và tạo dựng vào ngày 25/8/1945 phục vụ cuộc mít tinh có quy mô lớn chào mừng Cách mạng tháng Tám.
Ngay sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến, nhiều kiến trúc sư đã từ bỏ cuộc sống giàu sang ở đô thị để đưa gia đình ra vùng tự do, lên chiến khu Việt Bắc, tự nguyện và chung tay làm bất cứ công việc gì có lợi cho cách mạng. Trước yêu cầu cho một cuộc sống mới, với những không gian cần thiết như hội trường, trụ sở ủy ban, lớp bình dân học vụ, nhà triển lãm, khu giao tế, nhà thông tin… với những vật liệu chủ đạo khai thác tại chỗ là tre, nứa, lá, gỗ, đất… những công trình quy mô đã được dựng nên: Hội trường Đại hội Đảng, Khu nhà ở Hội nghị cán bộ Trung ương lần thứ 5, Khu Hội nghị Trung ương Đảng… Đó là những công trình với đường nét kiến trúc giản dị, ẩn mình trong rừng cây Việt Bắc, cấu tạo theo kĩ thuật truyền thống và được gia công kĩ lưỡng. Hai kiến trúc sư đầu ngành Nguyễn Cao Luyện, Hoàng Như Tiếp là những người góp sức tập hợp, tổ chức các công trình kiến trúc ở Liên khu 1, Liên khu 10, Liên khu 3, Liên khu 4.
Nhà nghiên cứu mỹ thuật Phạm Long cho rằng: Trước đó, các KTS như Nguyễn Cao Luyện, Hoàng Như Tiếp đã có những thiết kế đi vào thực tế với phong trào Nhà Ánh Sáng, dành cho những người dân quê và thợ thuyền nghèo, được hiện thực hóa ở bãi Phúc Xá (Hà Nội)… Khi lên chiến khu, họ đã phát huy việc xây dựng những không gian ở, sinh hoạt một cách gần gũi, tự nhiên: “Những ngôi nhà đơn giản, với vật liệu tiết kiệm nhất nhưng vẫn đảm bảo ánh sáng trong những khu rừng Việt Bắc hoặc là trong môi trường trung du miền núi, đảm bảo sinh hoạt của đoàn thể cũng như các gia đình… cũng là nhờ một phần việc họ đã tham gia phong trào Ánh Sáng từ cuối những năm 1930” - nhà nghiên cứu mỹ thuật Phạm Long nói.
Cũng từ chiến khu Việt Bắc, ngày 27/4/1948, Đoàn Kiến trúc sư Việt Nam ra đời (tiền thân của Hội Kiến trúc sư Việt Nam ngày nay). Thế hệ kiến trúc sư đầu tiên như Ngô Huy Quỳnh, Nguyễn Cao Luyện, Hoàng Như Tiếp… đã đóng góp trong sự nghiệp kiến thiết, xây dựng đất nước, đặt nền móng cho nền kiến trúc Việt Nam hiện đại.