Điên tiết tôi ra chợ tiện tay mua luôn con dao mới. Thế là có mới nới cũ, cái mới phải làm việc quá sức, nên chẳng mấy chốc lại trơ lỳ nhập vào đội quân đình công. Trên cái giá dao kéo vì thế cứ đông dần lên, đủ cả cũ mới, lớn bé.
Con gái tôi khi đụng đến dao lại bực mình càu nhàu. “Dao cùn quá, để con đi quay cho nhé, một loáng là sắc như nước ngay". Tôi vội can: “Không được quay, quay là hỏng hết dao kéo đấy”. Thực ra là tôi đang đợi người mài dao kéo đến, ông vẫn thường qua phố tôi, và đứng trước cửa nhà tôi rao to: “Ai mài dao kéo đơ. i. i... Có khi tôi bận chưa kịp ra thì ông đứng chờ, vì ông biết chắc đám dao nhà tôi đã đến phải chăm sóc. Ông căn thời gian rất chuẩn, nên tôi cũng không phải chờ đợi lâu. Nhưng, không hiểu sao, đến nay đã quá kỳ hạn lâu rồi mà tôi vẫn không thấy tiếng rao của ông văng vẳng trên đường phố. Ở con phố nhỏ nhà tôi, những tiếng rao như đã thành hơi thở của phố, vắng một tiếng rao cứ như hụt hẫng, như nhơ nhớ một người thân. Nào từ tinh mơ, đã văng vẳng “Ai xôi lạc, xôi đậu xanh đơ...", đám trẻ đi học sớm chẳng bao giờ bị lỡ bữa sáng. Đến trưa lại ngọt ngào tiếng rao của chị bán tào phớ, gần chiều lại đong đưa tiếng rao của chị “Ai chè khoai, chè đậu đen đơ...i”. Buổi tối là tiếng rao nhát gừng của ông già bán lạc rang húng lìu: “Lạc... rang... húng lìu... iu”. Tối đến là tiếng người tẩm quất rao như đang gảy đàn: “Ai tẩm quất đấm lưng... ưng... tưng tưng”. Tuy nhiên, tiếng rao cũng biến đổi theo thời gian như đứa trẻ lớn lên, người già khuất núi. Những tiếng rao mới mẻ xuất hiện, những tiếng rao cũ kỹ chìm dần theo năm tháng. Nhưng phố tôi chẳng bao giờ vắng tiếng rao, từ tiếng rao lanh lảnh chói tai của chiếc loa ắc quy, đến tiếng rao nhỏ trầm, khàn đặc của cụ già bán cháo đậu xanh. Nhưng chưa có tiếng rao nào lại làm tôi chờ đợi lâu như thế này.
Không phải mình tôi đang mong, mà ngay cả chị bạn hàng xóm cũng băn khoăn, “Sao lâu nay em không thấy ông già mài dao kéo đến nhỉ, dao nhà em cùn cả rồi”. Tôi ăn ủi: "Có khi ông ấy lại ốm như lần trước". Chả là lần trước tôi cũng phải một phen chờ đợi đến mỏi mắt, định tự đi mài mấy lần nhưng cứ nấn ná. Tôi và dân phố tôi đã thành quen có ông cụ mài dao kéo phục vu theo định kỳ r ồi. Ông chẳng cần ghi sổ vậy mà nhớ như in, nhà nào, đến bao giờ thì lại phải mài dao tiếp. Ông bảo: “Mài dao cũng như trồng cái cây, nuôi con vật đừng vặt đến quả cuối cùng, ăn đến con cá trứng. Mài dao phải để lại nước thép mới bền. Con dao nếu biết cách mài thì dùng đến cả đời vẫn tốt”. Không biết cái triết lý ấy của ông rút ra từ đâu hay đúc kết từ kinh nghiệm cả đời làm nghề mài dao kéo của mình?.
|
Ông đã làm nghề mài dao kéo từ lúc nào, tôi cũng không rõ, nhưng khi tôi đến ở trong con phố này khi mới chỉ là một phụ nữ trẻ tuổi, bây giờ đã trung niên, tôi đã thấy ông rồi. Lúc đó ông đã là một người đàn ông có tuổi nhưng người thấp bé, trên lưng lại cõng một cục u to tướng như cái niêu đất đắp nên kéo cả người ông gãy gập xuống như đang cõng ai đó, mà ông cõng thật, ông cõng một đôi quang gánh bé xíu chỉ vừa đủ để một hòn đá mài và một chậu nước con con. Đầu quang gánh treo chiếc giẻ lau, trông chả khác gì trẻ chơi đồ hàng. Thế mà suốt mấy chục năm qua, ông không hề thay đổi chút nào, dù càng ngày càng có nhiều phương tiện mài dao hiện đại hơn. Có lẽ bởi phố tôi, vẫn còn rất nhiều người muốn ông mài dao, bằng lối mài truyền thống. Thế mà lần ấy ông để dân phố tôi phải chờ đợi khá lâu tiếng rao của ông, một số người không đợi được đã đi mài chỗ khác, còn tôi, tôi vẫn cố chờ... Thế rồi như một sự đền đáp cho sự chờ đợi của tôi. Tiếng rao khàn khàn của ông rung lên trước cửa nhà tôi, vào một buổi sớm mai ngày chủ nhật như thường lệ, tôi sung sướng đến reo lên. Song, lòng tôi chợt thắt lại khi nhìn thấy ông, ông đứng trước cửa nhà tôi cúm rúm, co ro bé nhỏ như một đứa trẻ lên mười. Thay cho chiếc quang gánh trên vai là một cái túi vải, bên trong đựng hòn đá mài, hình như cũng nhỏ hơn trước. Ông nói như người có lỗi rằng ông bị ốm nên không đến mài dao cho chúng tôi được. Tôi vội lôi hết những thứ cần mài trong nhà ra để ông mài, cả những con dao cái kéo không cần dùng nữa. Ông lại ngồi bệt dưới gốc cây tỉ mẩn chăm chút từng con dao cái kéo. Lần này hình như ông mài lâu hơn thì phải. Xong việc, tôi mang tiền trả ông, ông đếm đi đếm lại và lập bập nói rằng tôi đưa thừa tiền, ông nói vẫn lấy như giá cũ thôi. Tôi nói: “Cháu biếu thêm cụ để bồi dưỡng ốm đau”. Ông mở to đôi mắt già nua mờ đục nhìn tôi đầy cảm động, và run run nói lời cảm ơn. Ông thu dọn chỗ vừa làm việc sạch sẽ, chào mọi người, rồi lại bước đi nghiêng nghiêng trên hè phố. Cùng với tiếng rao cũng rơi thập thõm theo bước chân ông.
Hay là lần này ông lại ốm, tôi tự trách mình sao chưa bao giờ tôi hỏi xem nhà ông ở đâu?, ông có ai là người thân?, để tôi có thể đến thăm. Dẫu sao thì ông cũng đã gắn bó với phố tôi đến nửa đời người rồi. Chúng tôi cũng đã quá quen thuộc khi có ông mài dao mà không hề nghĩ rằng: Sẽ đến lúc nào đó không còn ông để mài dao nữa. Cuộc sống chẳng có gì là vĩnh cửu huống hồ là con người. Ông đã bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? Chẳng một ai hay. Chỉ đoán khi chúng tôi cũng đã héo mòn theo năm tháng. Tôi bồn chồn lo lắng, ước gì tôi có thể đến thăm ông, dù chỉ để thắp cho ông một nén nhang nếu như... Sao tất cả chúng tôi đều vô tâm thế? Cứ tưởng cho ông thêm ít tiền, là đã mang lại cho ông nhiều ân huệ lắm rồi. Chúng tôi mãn nguyện với lòng hảo tâm của mình, trong khi không một ai biết ông đang ở đâu, sống ra sao và ông đang cần gì?.....
“Mẹ làm gì mà đứng thẫn thờ nhìn con dao thế, à mẹ ơi, trên tivi vừa quảng cáo bán máy mài dao gia đình đấy, chỉ cần đưa con dao lưới một cái là sắc ngay, chả tốn tý sức nào. Con mua cho mẹ nhé”. Tôi kêu lên: “Không, không cần đâu...” rồi quay đi lẩm bẩm một mình: cái mẹ cần bây giờ là một tiếng rao kia “Ai mài dao kéo đơ..i..i”.