Diễn đàn lý luận

Văn học thời chống Mỹ: Một thời và Dài lâu

Ngô Thảo
Lý luận phê bình 07:00 | 02/05/2025
Baovannghe.vn - Con người là sinh vật duy nhất có khả năng tưởng tượng về tương lai. Những bài học từ quá khứ là những tri thức có giá trị di truyền xuyên thế hệ giúp định hình tương lai.
aa

Trong những ngày thế giới đang có nhiều diễn biến rối rắm, nhiều cuộc xung đột vũ trang đang tiếp diễn dai dẳng ở nhiều châu lục như hiện nay, nhìn lại chúng ta càng thấy đoạn kết của cuộc kháng chiến chống Mỹ tròn 50 năm trước - một dấu son chói sáng trong lịch sử mấy ngàn năm - là một may mắn lớn biết chừng nào: Giành một đất nước độc lập, thống nhất trọn vẹn trong một chiến dịch lớn mà cơ sở vật chất ít bị tàn phá nhất. Cảm nhận đó chắc không chỉ của những người lính từng trực tiếp tham gia chiến đấu.

Hiện nay, dấu tích chiến tranh đã dần bị xóa mờ trên đà xây dựng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nhưng trong đời sống tinh thần, dấu ấn chiến tranh vẫn còn chiếm giữ một vị trí không thể thay thế. Mặt lộ thiên của di sản đó chính là những tác phẩm văn học nghệ thuật ra đời trong 10 năm 1965-1975.

Thời gian qua đi, cho chúng ta có độ lùi để nhìn lại những cơ sở làm nên thành tựu đáng ghi nhớ của của văn học nghệ thuật trong chiến tranh.

Trước hết, phải xác nhận, kháng chiến chống Mỹ, sau 9 năm chống Pháp là một lựa chọn bắt buộc, để giành một nước độc lập. Trong hoàn cảnh đó, mọi hoạt động của mỗi công dân yêu nước đều hướng đến một mục tiêu nhất định. Sáng tác văn học dẫu là một hoạt động cá nhân riêng tư, nhưng ý thức công dân cũng buộc mỗi người lựa chọn cách thể hiện hữu ích cho sự nghiệp chung. Nhiều sáng tác ghi trong sổ tay đã không được chọn công bố, khi tác giả tự thấy chưa hòa nhịp với khí thế chung.

Công tác tổ chức để huy động đóng góp của lực lượng văn nghệ và phát huy tác dụng của văn học nghệ thuật trong quá trình tiến hành cách mạng đã được Đảng ta quan tâm ngay từ thuở thành lập Văn hóa Cứu quốc 1943, qua kháng chiến chống Pháp, được tập hợp mới (các hội sáng tạo văn học - nghệ thuật) trong 10 năm miền Bắc có hòa bình, kịp khi bước vào kháng chiến chống Mỹ, mọi miền đất nước, mọi chiến trường đã có mặt những văn nghệ sĩ từng có những tác phẩm được chú ý. Mười năm hòa bình cũng tạo điều kiện cho thế hệ trẻ nâng cao trình độ văn hóa, để khi bước vào chống Mỹ, hiện thực muôn vẻ của cuộc chiến hào hùng và khốc liệt lại thành nguồn cảm hứng cho nhiều người trở thành văn nghệ sĩ.

Văn học thời chống Mỹ: Một thời và Dài lâu
Bìa sách mang tính minh họa

Ngày 23-6-1965, ngay trong trận đầu máy bay Mỹ bắn phá, quân dân Hà Tĩnh đã bắn rơi 12 máy bay. Chiến thắng vang dội của quê nhà đã làm anh lính phòng không Phan Duy Thảo đang trực chiến ở Vĩnh Phúc viết nên một bài thơ hào hùng Mừng chiến thắng trời quê. Báo Nhân dân đăng ngay ở trang đầu. Trong một cuộc họp, Bác Hồ đã tổ chức để nghệ sĩ Hà Tĩnh Xuân Năm ngâm cho cả Bộ Chính trị cùng nghe, không chỉ để biết tâm tình của người dân, mà chính các đồng chí cũng được động viên rất nhiều. Đó không là một hiện tượng cá biệt. Mấy năm trước, khi Đảng chưa phát động đấu tranh vũ trang, miền Nam chìm trong đêm tối, mấy bài thơ Mồ anh hoa nở của Thanh Hải, Quê hương của Giang Nam, và đặc biệt trường ca Bài ca chim Chơ-rao của Thu Bồn, Sống như Anh của Trần Đình Vân đã mang tới những niềm tin và hy vọng lớn cho đồng bào cả nước. Bắt đầu từ một thành công như thế nhiều người đã thành nhà văn, nhà thơ. Trong Tổng tấn công Mậu Thân, bài thơ Đà Nẵng gọi ta, Thu Bồn đọc cho đơn vị trước giờ lên đường, được nhiều lãnh đạo Quảng Nam - Đà Nẵng đánh giá có sức mạnh động viên như một binh đoàn. Bút ký Đường chúng ta đi của Nguyên Ngọc chính là một bài hịch động viên tinh thần bộ đội Quân khu V trước khi trực tiếp đánh với quân Mỹ. Ở Nam Bộ, ca sĩ Tô Lan Phương hát cho hàng quân trước giờ xuất kích, được đơn vị xin lấy tên nghệ sĩ đặt tên cho đại đội. Năm 1969, khi Bác Hồ mất, bài thơ Gửi lòng con đến cùng Cha của Thu Bồn, có những câu được học sinh - sinh viên đô thị miền Nam lấy làm biểu ngữ trong các dịp xuống đường biểu tình: Cho con núi rộng sông dài/ Cho con lưỡi kiếm đã mài nghìn năm. Điều đặc biệt là hình như trong những năm chiến tranh, Danh và Lợi không hề là động lực cho các nhà văn sáng tác.

Ngoài mặt trận, mỗi chiến dịch, mỗi trận đánh đều là kết quả của một quá trình lựa chọn. Hoàn cảnh, điều kiện cụ thể về nhân tài vật lực, địa hình, thời tiết, đối phương, nghĩa là rất nhiều yếu tố, để không phải khi nào cũng được chọn phương án tối ưu. Lặp lại một phương án đã từng giành chiến thắng, rất có thể có một thất bại đang chờ. Không ai muốn hy sinh nhiều trong từng trận đánh, nhưng không dám, không quyết hy sinh thì không mong có chiến thắng, mà chiến thắng cuối cùng mới là cái đích phải hướng tới. Sáng tác văn học trong chiến tranh cũng là một sự lựa chọn bất toàn như vậy. Trong nhiều lần trò chuyện với các nhà văn quân đội, nhà thơ Nguyễn Đình Thi cũng tâm sự: trong chiến tranh, văn học, nghệ thuật nước nào cũng phải chịu những hạn chế nhất định. Nhà văn lúc đó chỉ có thể là người thổi kèn, đánh trống. Làm sao mà viết hết sự thật về chiến tranh được. (Yêu cầu chính trị, yêu cầu bí mật, yêu cầu tất cả cho chiến thắng, không cho nhà văn và văn học lửng lơ, khách quan.) Nhiều vấn đề của chiến tranh nhiều năm sau giải quyết không hết, nhưng trong chiến tranh không thể nói to lên, nói hết, mà phải nén lại, phải giấu đi, nếu không cũng lờ đi. Yêu cầu chiến thắng đòi hỏi phải như thế. Và như thế là đúng, là hoàn toàn nhân đạo. Nhà văn sẽ phi chính trị, vô lương tâm khi anh lạnh lùng phanh phui tất cả những cái đó. Khi anh nói ra, người ta có thể nhổ vào mặt anh: Anh bôi nhọ chúng tôi, anh là người giả dối, xuyên tạc sự thật. Bởi có nhiều vấn đề trong chiến tranh không thể nói, viết ra được.

Nhà văn Nguyễn Khải, tác giả của những Họ sống và chiến đấu, Hòa Vang, Ra đảo, Đường trong mây, Chiến sĩ cũng từng có lần thổ lộ, viết gì nữa về chiến tranh là rất khó có cái mới: Sau Dấu chân người lính của Nguyễn Minh Châu mà tôi còn viết Chiến sĩ thì cũng gan thật.

Nhà văn Nguyễn Minh Châu trong những ngày cuối của chiến tranh, trò chuyện với bạn bè, cũng nghĩ: Có khi rồi đây, những thứ chúng ta è cổ viết lách này sẽ là rơm rác hết. Có chăng còn lại là một Tống biệt hành của Thâm Tâm.

Nhà văn Xuân Thiều lại hỏi: Bọn ta có đang thật là làm văn học không? Nguyễn Khải xác nhận: Thì rõ ràng là người làm nghề viết văn rồi. Sổng nó ra, còn biết sống bằng gì! Chính Nguyễn Khải cũng chỉ muốn nhận mình là một người viết văn, mà không muốn ai biết ông là nhà văn. Đối thoại với một lãnh đạo chiến dịch Hồ Chí Minh, khi vị tướng hỏi: Các anh viết văn thì cần những chuyện gì? Tác giả thuật lại: Tôi vội trả lời là mọi việc các anh đã làm đều thuộc về văn học cả, không có gì phải lược bỏ. Giả dụ rằng, nếu viết tất cả như thế thì sẽ là một bản báo cáo chứ không thể là sáng tác văn học, thì tôi cũng sẵn sàng làm người viết báo cáo. Làm báo cáo trước, làm văn học sau, bao giờ rỗi rãi sẽ làm văn, còn lúc này thì rất cần làm người thuật chuyện. Có lẽ bạn đọc hiện nay cũng đang thích như thế, đang muốn đọc một bản tường trình cặn kẽ như thế!

Những tư liệu này tôi ghi lại trong tập tư liệu văn học Dĩ vãng phía trước. Giờ đọc lại càng thấy quý trọng sự sáng suốt và khiêm nhường của những nhà văn thuộc lớp tài năng hàng đầu trong văn học chống Mỹ. Có nhận xét của một nhà phê bình văn học nước ngoài khi nói về Nguyễn Minh Châu có lẽ cũng đúng với văn học trong thời kỳ này: "Nhà văn tắm rửa sạch sẽ cho các nhân vật của mình, họ giống như được bao bọc trong một bầu không khí vô trùng"

Nhìn lại những thành công của cả nền văn học trong những năm chống Mỹ, trước hết, phải thấy sự trưởng thành của công tác tổ chức. Với phương châm ở đâu có người lính, ở đó có nhà văn, mỗi nhà văn như những hạt cơ bản được đưa vào cỗ máy gia tốc - thực tiễn các chiến trường - để giúp giải phóng sức sáng tạo còn tiềm tàng trong từng cá nhân. Chiến trường Nam Bộ, Khu V, B4 (Trị Thiên), B5 (Bắc Quảng Trị) là điểm đến của nhiều nhà văn, và quan trọng là sự có mặt của họ được xác định bằng những tác phẩm đặc sắc, nhiều thể loại, với chất lượng ngày càng cao, mang rõ bản sắc chiến trường và cá tính sáng tạo từng tác giả. Trong bài báo nhỏ, kể tên cụ thể thế nào cũng thiếu sót, nhưng rất mừng là bên cạnh lớp đàn anh như Nguyễn Thi (Nguyễn Ngọc Tấn), Anh Đức, Nguyễn Quang Sáng, Lý Văn Sâm, Vũ Hạnh, Trang Thế Hy, Giang Nam, Võ Trần Nhã, Thanh Giang, Nguyễn Thanh Vân (Nguyễn Trọng Oánh), Lê Anh Xuân, Triệu Bôn… ở Nam Bộ; Nguyên Ngọc, Phan Tứ, Nguyễn Chí Trung, Thu Bồn, Chu Cẩm Phong, Bùi Minh Quốc, Dương Thị Xuân Quý… ở chiến trường Khu V; Tô Nhuận Vỹ, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải… ở Trị Thiên…, gần cuối cuộc kháng chiến đã xuất hiện một lớp nhà văn, nhà thơ trẻ, sau này sẽ là lực lượng chủ lực của văn học nước nhà sau chiến tranh. Các nhà văn thuộc tạp chí Văn nghệ quân đội, hầu hết đã qua kháng chiến chống Pháp, đến chống Mỹ đã có một bước tiến vượt bậc trên con đường tìm ra bản sắc riêng, ở miền Bắc là Thanh Tịnh, Chính Hữu, Vũ Cao, Hồ Phương, Hữu Mai, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Hải Hồ, Xuân Thiều, Xuân Sách, Mai Ngữ, Phạm Ngọc Cảnh, Ngô Văn Phú, Nguyễn Thị Như Trang, Văn Thảo Nguyên, Vương Trọng, Nguyễn Đức Mậu, Anh Ngọc… Ở các đơn vị chiến đấu, các quân binh chủng có Đỗ Chu, Lưu Quang Vũ, Phạm Tiến Duật, Lê Lựu, Hữu Thỉnh… là những người có tác phẩm xuất hiện thường xuyên. Bám sát đời sống bằng tác phẩm chính là một bước trưởng thành đáng ghi nhận của văn học những năm chống Mỹ. Không chỉ thế, chính vị trí của từng người ở những nơi chiến trận ác liệt đã cho họ cái tự tin và tự hào trong sáng tạo các tác phẩm văn thơ mang âm hưởng mới mẽ, lạc quan, lãng mạn. Ngày nay, một số người giễu câu thơ Phạm Tiến Duật: Đường ra trận mùa này đẹp lắm. Nhưng với nhiều người lính ra trận đó từng là một cảm xúc có thật. Và nhờ thế, mà hàng vạn người lính đã ra trận với khí thế hào hùng để làm nên chiến thắng. Câu thơ Thanh Thảo thể hiện một sự lựa chọn không thể khác: Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình/ (Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc)/ Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc!?

Cuộc kháng chiến chống Mỹ như một trận đại hồng thủy kiến tạo lại hình hài đất nước tận bề sâu, những vỉa quặng chìm, nổi nhiều tầng của nó còn cung cấp và thách thức sự tìm hiểu, sáng tạo của nhiều thế hệ. Những tác phẩm sáng tác kịp thời trong những năm chiến đấu, chắc chắn chỉ mới khai thác được bề nổi của cuộc chiến. Dẫu hầu hết các thể loại văn học đều đã được sử dụng: Thơ, trường ca, bút ký, truyện ký, truyện ngắn, tiểu thuyết, hồi ký, nhật ký… đã cho người đọc hình dung bức tranh toàn cảnh của cuộc kháng chiến. (Hãy nhớ, 9 năm chống Pháp, chỉ có 3 tiểu thuyết được chú ý: Xung kích của Nguyễn Đình Thi, Vùng mỏ của Võ Huy Tâm, Con trâu của Nguyễn Văn Bổng.) Sau chiến tranh đã được bổ sung bằng nhật ký các liệt sĩ (Đặng Thùy Trâm, Nguyễn Văn Thạc…); nhật ký, sổ tay ghi chép của các nhà văn hy sinh: Nguyễn Thi, Dương Thị Xuân Quý, Chu Cẩm Phong, Lê Anh Xuân… Thậm chí, ở Mỹ còn có tập Thơ từ những tài liệu bị bắt giữ (Poems from Captured Documents), in các bài thơ phía bên kia nhặt ra trong những cuốn sổ tay các chiến sĩ ta bị họ nhặt được trong các trận đánh. Tính chất báo chí lấn át phần sáng tạo văn học cũng là điều dễ nhận thấy. Già ký non truyện là một nhận xét được nhiều người nhắc. Kho tàng tác phẩm của hàng trăm tác giả cần được hệ thống, lưu giữ. Những hình thức khen thưởng là cần thiết và xứng đáng. Nhưng tổ chức để phát huy tác dụng tích cực của những tác phẩm giàu lòng yêu nước, lý tưởng sống cao đẹp, biết xả thân để bảo vệ Tổ quốc, vì Nhân dân quên mình, mới là điều cần làm trong bối cảnh xã hội biến động hiện nay.

Năm mươi năm qua, cuộc chiến tranh chưa bao giờ rời khỏi những trang sách văn học. Số lượng tác phẩm được chú ý nhất vẫn thuộc đề tài này. Sau tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh - một bè trầm đặc sắc trong bản đại hợp xướng về chiến tranh - được dư luận trong nước và quốc tế đánh giá cao, phần lớn truyện ngắn của tác giả vẫn trở về cùng đề tài. Mới đây nhất, chuyên san Viết và Đọc số xuân 2025, kỷ niệm 50 năm ngày đất nước thống nhất, đăng truyện ngắn Sinh ngày 28 tháng 1, thì vẫn là chuyện của người lính trở về, kể lại sự hy sinh của những người đồng đội vào đúng ngày Hiệp định hòa bình Paris 1973 có hiệu lực. Ám ảnh chiến tranh đổ bóng thường xuyên lên những người lính đã qua chiến tranh, dù làm bất cứ nghề gì. Trong một lần trả lời câu hỏi: Đã là thời điểm gác lại quá khứ, hướng tới tương lai, liệu văn học viết về chiến tranh có nên tiếp tục khai thác và khuyến khích? Nhà văn Văn Lê, tác giả gần 30 đầu sách, trong đó hơn 10 tiểu thuyết viết về chiến tranh đã trả lời: Có người nói với tôi chiến tranh đã qua rồi, vết thương đã liền da rồi, khơi lại làm gì? Ăn đời ở kiếp gì với nó? Những lời khuyên như vậy không phải không có lý. Đã có lúc tôi ngừng viết về chiến tranh, không muốn nghĩ về chiến tranh, nhưng thật khốn nạn, càng lẩn trốn, tôi càng thấy trống rỗng, chơi vơi. Dường như đối với tôi chiến tranh vẫn chưa chấm dứt… Nhiều khi tôi mơ thấy bạn bè về. Họ đói khát, tả tơi, nhìn tôi với ánh mắt thật buồn, rồi lặng lẽ bỏ đi, không nói. Không bao giờ nói. Thế rồi tôi lại viết. Viết để tự giải tỏa những uẩn khúc ở ngay trong lòng mình. Viết để được nhớ quá khứ, nhớ về họ, nhắc về họ. Ở đời, con người ta chỉ thật sự chết khi không còn ai nhớ, ai nhắc đến mình nữa. Viết đã tạo cho tôi cảm giác thăng bằng, không còn bơ vơ với hiện tại, và không cảm thấy hoang mang với tương lai nữa.Viết cũng giúp cho tôi nhớ lại, chiêm nghiệm lại những gì đã trải qua, để rồi tự điều chỉnh cuộc sống của mình sao cho lương thiện… Viết về chiến tranh, tôi nghĩ, không phải là để khơi gợi niềm đau, cổ súy hận thù, tôn vinh công trạng, mà là để củng cố đạo đức, củng cố lẽ phải của cuộc sống…. Những tàn phá về vật chất của chiến tranh chúng ta đã dần tạo dựng lại được. Nhưng sự mất mát những giá trị, sự hoang vu về tâm hồn, sự giá băng trong quan hệ, sự xộc xệch của thể thống thì không phải một sớm một chiều mà xây dựng lại được. Đó mới là sự tàn phá khủng khiếp của chiến tranh. Có thể vì vậy mà những bài học, những kinh nghiệm được rút ra từ chiến tranh giúp cho chúng ta cảm thông, chia sẻ được với những nỗi đau, mất mát của người khác, và cần hơn cả là thấy được cái Đạo - làm Người.

Chính vì thế, chắc chắn, cuộc kháng chiến chống Mỹ sẽ vẫn còn tiếp tục là mỏ quặng giàu trữ lượng cho văn học nghệ thuật tương lai. Nhưng điều đặc biệt của mười năm này so với những cuộc kháng chiến trong mấy ngàn năm lịch sử trước đó, chính là tính quốc tế mà thời đại mới đem lại. Chiến tranh, không chỉ là cuộc đối đầu của hai quốc gia, mà huy động lực lượng - dưới nhiều mức độ - của hai hệ thống trong thời kỳ chiến tranh Lạnh. Nhiều quốc gia tham gia với nhiều vai trò khác nhau, có những nước tham gia rất sâu vào chiến trận. Hiện thực này chưa có bao nhiêu bóng dáng trong văn học đương thời, mà những tác phẩm hậu chiến cũng còn vắng bóng. Chúng ta nên theo dõi mảng đề tài này có tồn tại trong văn học các nước tham gia chiến tranh ở hai phía, có rất nhiều quốc gia từng góp nhân tài, vật lực, đưa tin, ủng hộ và cổ vũ cho chiến thắng. Các tác phẩm báo chí, phim ảnh thì có nhiều. Nhưng phần văn học thì chưa có một ai để tâm sưu tầm, nghiên cứu. Tác phẩm của các tác giả quốc tế viết về Việt Nam trong chiến tranh, ở cả hai phía cũng rất cần được sưu tập, hệ thống. Văn học phía Việt Nam Cộng hòa đa sắc, khá cởi mở cần được nhìn nhận khoa học hơn là phủ nhận sạch trơn.

Rất khó hy vọng những nhà văn đã tham gia chiến đấu - Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy (Chế Lan Viên) có thể viết những tác phẩm ở tầm bao quát, hai trận tuyến, hay quốc tế về cuộc kháng chiến chống Mỹ. Mấy tiểu thuyết gần đây (Mưa đỏ - Chu Lai, Hương - Nguyễn Thụy Kha) mới là những bước đi dò dẫm, rụt rè. Những ngày cuối đời, Nguyễn Minh Châu vẫn đau đáu với một tiểu thuyết viết về chiến trận Quảng Trị 1972, dự kiến đặt tên Chân trời vỏ đạn. Đó là chiến trường anh đã nhiều năm gắn bó. Nhà văn Xuân Sách đã kể về chuyện anh chứng kiến Nguyễn Minh Châu từ cửa rừng trở về khi trên người đầy máu me. Trước đó, ra hẹn gặp một cán bộ đại đội công binh xuất sắc để khai thác tài liệu, khi hai người đang trò chuyện, thì OV10 bắn một viên đạn cối vu vơ. Nghe tiếng rít, hai người nhảy xuống hầm. Sau tiếng nổ gần, nhà văn thấy bị đè nặng đứng lên, thì người đại đội trưởng đã chết. Máu của anh chảy ướt đầm nhà văn. Không biết anh cán bộ vô tình hay cố ý che chắn cho mình, nhưng những trải nghiệm xương máu đó thì không ai có thể quên. Sau hòa bình, nhà văn đã sưu tầm rất nhiều tư liệu về chiến dịch Thành cổ. Nhà văn Nam Hà giúp tìm trong quân sử Việt Nam Cộng hòa nhiều tư liệu. Tác giả đã có nhiều trang phác thảo cho tiểu thuyết. Nói như nhà thơ Nguyễn Trung Thu thực ra là rất rõ anh muốn mượn mảnh đất nhọc nhằn của miền Trung ấy để thể hiện những vấn đề da diết nhất của số phận dân tộc mình. Nhà văn từng nghĩ: Cái mảnh đất Quảng Trị gần như tôi si mê nó, hình như trong con người tôi và mảnh đất ấy có chung một sợi dây thần kinh mà hễ cứ chạm đến đấy thì cả con người tôi rung lên. Tôi đã gắn bó với nó - cái vùng quê hương của chiến tranh và khổ ải ấy - hơn cả với quê mình. Bây giờ nhìn lại, không những cái mớ tiểu thuyết mà cho đến cả đám truyện ngắn đông đúc có mấy cái là không phải chuyện ở đây đâu - kể cả cái Cỏ lau gần đây nhất hay cái Mảnh đất tình yêu cũng vậy. Có lẽ tôi nhìn thấy từ lâu ở đây cái chỗ biểu đạt rõ nhất đời sống của con người của đất nước này chăng?.

Cho dù cuốn tiểu thuyết ấy được hoàn thành, thì chắc chắn vẫn chưa phải là tác phẩm mà bạn đọc nhiều thế hệ mong chờ.

Năm tháng qua đi. 61.000 nấm mồ có tên và không tên trong 72 nghĩa trang liệt sĩ của Quảng Trị, có 2 nghĩa trang Quốc gia, cũng như mấy trăm nghìn ngôi mộ trong các nghĩa trang trên cả nước rồi sẽ thưa vắng dần đồng đội cùng đơn vị viếng thăm. Người thân rồi cũng vắng dần. Nhưng mỗi nấm mồ là một cuộc đời, có một câu chuyện để kết nối với cộng đồng. Họ thường xuyên nhắc nhớ cho những ai đang và sẽ sống trên đất nước này cái giá của sự sống trong Độc lập và Tự do. Con người là sinh vật duy nhất có khả năng tưởng tượng về tương lai. Những bài học từ quá khứ là những tri thức có giá trị di truyền xuyên thế hệ giúp định hình tương lai. Trong thế giới bất an, cả trong xã hội cũng như trong văn hóa hiện nay, những bài học từ một quá khứ chưa xa, giúp dân tộc ta vươn lên, vượt lên, vẫn cần được chuyển tải hấp dẫn trong những tác phẩm văn học nhiều thể loại. Mười năm kháng chiến chống Mỹ vẫn là một mỏ quặng đề tài cho văn học.

Việt Nam lần đầu lọt Top 5 điểm đến châu Á hút khách châu Âu hè 2025

Việt Nam lần đầu lọt Top 5 điểm đến châu Á hút khách châu Âu hè 2025

Lần đầu tiên, Việt Nam góp mặt trong Top 5 điểm đến châu Á được du khách châu Âu tìm kiếm nhiều nhất cho mùa hè 2025, theo báo cáo mới công bố của Agoda. Với sự quan tâm tăng vọt từ cả thị trường truyền thống lẫn các quốc gia mới nổi, cùng chính sách visa linh hoạt và những trải nghiệm du lịch đa dạng, Việt Nam đang khẳng định vị thế ngày càng hấp dẫn trên bản đồ du lịch toàn cầu.
Báo chí thúc đẩy, truyền cảm hứng cho doanh nghiệp trong kỷ nguyên mới

Báo chí thúc đẩy, truyền cảm hứng cho doanh nghiệp trong kỷ nguyên mới

Baovannghe.vn - Sáng ngày 5/6, tại Hà Nội, Cục Báo chí, Báo Văn Hóa (Bộ VH-TT-DL) phối hợp với Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa TP Hà Nội tổ chức Hội thảo "Báo chí đồng hành xây dựng và phát triển văn hóa doanh nghiệp trong kỷ nguyên mới".
Liên hoan sân khấu về “Hình tượng người chiến sĩ Công an” được tổ chức tại Hà Nội

Liên hoan sân khấu về “Hình tượng người chiến sĩ Công an” được tổ chức tại Hà Nội

Baovannghe.vn - Liên hoan Nghệ thuật sân khấu chuyên nghiệp toàn quốc về “Hình tượng người chiến sĩ Công an” do Bộ Công an phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và Hội Nghệ sĩ sân khấu Việt Nam tổ chức sẽ diễn ra từ ngày 24/6 – 6/7, tại thủ đô Hà Nội.
Gặp hồn quê Kinh Bắc qua "Xẩm chợ" của hoạ sĩ Đỗ Bảng

Gặp hồn quê Kinh Bắc qua "Xẩm chợ" của hoạ sĩ Đỗ Bảng

Baovannghe.vn - Triển lãm “Xẩm Chợ” được xem là những lát cắt sâu sắc trong hành trình sáng tác hơn ba thập kỷ của họa sĩ Đỗ Bảng - người con sinh ra và lớn lên trên quê hương Kinh Bắc
"Văn khắc Hán Nôm núi Non Nước": Kho tàng sử liệu, văn liệu phong phú và quý giá

"Văn khắc Hán Nôm núi Non Nước": Kho tàng sử liệu, văn liệu phong phú và quý giá

Baovannghe.vn - Hội thảo khoa học quốc tế Văn khắc Hán Nôm núi Non Nước -Tiềm năng di sản tư liệu do Sở Văn hóa và Thể thao Ninh Bình phối hợp với Viện Nghiên cứu Hán Nôm (Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam) và Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia Hà Nội) tổ chức. Hội thảo diễn ra chiều 4/6 tại tỉnh Ninh Bình