Chuyên đề

Xem bút tích Quang Dũng nói thêm về Tây tiến

Tư liệu
18:39 | 22/05/2021
Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Quang Dũng (1921-1988). Lúc đầu bài thơ này được tác giả đặt là Nhớ Tây Tiến, đến khi in lần đầu tiên ở tập Mây đầu ô1 mới được đổi thành Tây Tiến. Nhiều tài liệu đều xác định Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947 nhằm phối hợp với quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt - Lào, hoạt động tại Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa, Sầm Nưa (Lào)
aa

Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu nhất của nhà thơ Quang Dũng (1921-1988). Lúc đầu bài thơ này được tác giả đặt là Nhớ Tây Tiến, đến khi in lần đầu tiên ở tập Mây đầu ô1 mới được đổi thành Tây Tiến. Nhiều tài liệu đều xác định Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947 nhằm phối hợp với quân đội Lào bảo vệ biên giới Việt - Lào, hoạt động tại Hòa Bình, Sơn La, Thanh Hóa, Sầm Nưa (Lào). Nhan đề Nhớ Tây Tiến có lý do của nó, vì bài thơ được sáng tác vào năm 1948 khi Quang Dũng đã không còn ở đơn vị cũ (Tây Tiến), chuyển đến đơn vị mới tại Phù Lưu Chanh (Hà Tây). Tình cờ, tôi đọc được bài thơ này qua bút tích của chính tác giả Quang Dũng chép trong một cuốn sổ tay cũ của cha tôi - nhà thơ Hải Bằng (Cuốn sổ tay ấy còn có nhiều bút tích của các tác giả khác như Phùng Quán, Phạm Khoa Văn, Phạm Tiến Duật, Vương Trọng, Cảnh Trà, Thanh Hải, v.v). Ở bản bút tích của Quang Dũng, bài thơ có nhan đề là “Nhớ Tây Tiến - 1947”2.

Xưa nay, chúng ta đều tiếp nhận bài thơ theo nội dung ở bản in lần đầu như đã nói, ở các công trình nghiên cứu được xuất bản. Từ năm 1990 bài thơ này đã được đưa chương trình giáo dục. Hiện nay, học sinh lớp 12 học và phân tích ngữ văn bài thơ này trong sách Ngữ văn3.

Tất cả các bản in lại bài thơ dường như đều có một sự thống nhất chung về câu cú, từ ngữ, chính tả, không có sự khác biệt nào. Tuy nhiên, ở bản chép tay này có một số chi tiết khác biệt so với các bản in đó. Một số chi tiết khác biệt ấy cũng không có gì để bàn luận vì so với bản bút tích, các bản in ấy đã thể hiện một quy tắc chuẩn chính tả mà thôi. Ví như “Anh bạn rãi rầu” (bản bút tích - BBT) thành “Anh bạn dãi dầu” (bản in - BI); “Nàng E ấp” thành “nàng e ấp”, “Nhạc về Viên Chiên” thành “Nhạc về Viên Chăn”, v.v.

Tuy nhiên, giữa hai bản này có 03 chữ khác biệt rất quan trọng vì liên quan đến ngữ nghĩa câu thơ và ý tứ tác giả. Dưới đây là so sánh và phân tích qua các câu có từ khác biệt:

- Khác biệt 1: Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi (BBT) sẽ hoàn toàn khác với Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người (BI). Ở đây có sự khác biệt giữa trêu ngươi và trêu người.

Dẫn lại dòng thơ: “Chiều chiều oai linh thác gầm thét/ Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi”. Dòng thơ miêu tả cảnh núi rừng hùng vĩ, uy linh của đại ngàn gắn với không gian và thời gian tâm trạng của con người. Theo bản in là “cọp trêu người” (đùa giỡn với người) là có gì đó chưa đúng. Cọp vốn dĩ hung dữ, là nỗi kinh sợ của con người và đại ngàn. Hơn nữa, trên thực tế làm gì có chuyện cọp trêu đùa với người, mà chỉ có thể trở thành nỗi khiếp đảm kinh hoàng của con người mà thôi. Trong khi đó, bản bút tích là “cọp trêu ngươi” (khiêu khích chọc tức), do đó, “trêu ngươi” ở đây hợp lý không chỉ về ngữ nghĩa mà còn hợp lý về cả thanh điệu câu thơ.

- Khác biệt 2: Mai Châu mùa em thơm nếp sôi (BBT) sẽ hoàn toàn khác với Mai Châu mùa em thơm nếp xôi (BI). Ở đây có sự khác biệt giữa sôi và xôi.

Dẫn lại dòng thơ: “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp sôi”. Rõ ràng ở bản bút tích chữ “sôi” là hợp với tình ý với mạch câu thơ hơn là “xôi”. “Thơm nếp sôi” sẽ bắt cùng hình ảnh trên là “cơm lên khói”. Sôi là vừa một động từ vừa là một tính từ chỉ trạng thái (đang sôi lên) mới khiến dậy lên được cái mùi nồng nàn của “thơm nếp”. Còn “thơm nếp xôi” thì “xôi” là một danh từ, vô hình trung tạo nên nét dư không cần thiết trong thơ. Tập quán định danh sự vật ở đây thường có các cách gọi: cơm nếp, hoặc xôi mà thôi. Chữ “sôi” trong ngữ cảnh này, Quang Dũng sử dụng là đúng như nghĩa của nó, không phải nhầm lẫn về ngữ âm kiểu dãi dầu - rãi rầu (trong bài) hay kiểu trăng - giăng, nhảy nhót - nhẩy nhót, v.v. trong tập quán chính tả của phương ngữ Bắc bộ. Hơn nữa, trên thực tế, tập quán chính tả của người miền Bắc chỉ có thể nhầm từ sum họp thành xum họp, chia sẻ thành chia xẻ khi viết, nghĩa là /s/ bị nhầm thành /x/, không có trường hợp ngược lại (/x/ bị nhầm thành /s/). Do đó, thơm nếp sôi, trong đó “sôi” là một động từ và là tính từ với một hiển ngôn rõ ràng của Quang Dũng hướng đến.

Do vậy, cả 4 dòng thơ trên thiết tưởng cũng cần đính chính lại để diễn trúng ý của tác giả và tình ý của bài thơ:

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu ngươi (không phải người)

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp sôi (không phải xôi)

- Khác biệt 3: “Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm” (BBT) sẽ hoàn toàn khác với “Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm” (BI). Ở đây có sự khác biệt giữa Kiều viết hoa và kiều không viết hoa.

Dẫn lại dòng thơ: “Mắt trừng gửi mộng qua biên giới/ Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”. Ở đây, bản bút tích Quang Dũng đã ghi một chữ Kiều viết hoa. Mà sau đó, trong bản in vì chữ kiều được nhận thức là không viết hoa nên sách giáo khoa đã giải thích như sau: “Dáng kiều thơm: dáng vẻ xinh đẹp, đáng yêu của người con gái” 4. Rõ ràng sự khác biệt giữa Kiều viết hoa và kiều không viết hoa đã khiến ngữ nghĩa câu thơ khác biệt hoàn toàn.

Tây Tiến là một đơn vị quân đội với thành phần chủ yếu là thanh niên, sinh viên, học sinh Hà Nội. Chiến đấu xa nhà, trong muôn ngàn gian khổ, nhất là trong cơn sốt rét giày vò đến nỗi da “xanh màu lá” ấy vẫn kiêu bạt, phóng mắt từ bên kia biên giới Lào để “trừng gửi mộng” về một Hà Nội hào hoa; để mơ một “dáng Kiều thơm” hư tan trong ký ức. Đó là một nàng Kiều bước ra từ sách vở, một giai nhân qua chữ nghĩa, một hư ảnh đẹp đẽ của thuở thiếu thời, một mộng tưởng dậy thì đằm sâu, chợt gợi thức từ chiêm cảm. Vậy nên, “dáng Kiều thơm” đó là chỉ hiện thân của cái đẹp tượng trưng, chỉ gọi tên mà không định được danh5 mà thôi. Đó chính là sự lãng mạn tìm quên để ngoai nguôi khốn khó, ngoai nguôi bệnh tật dày vò từ hoàn cảnh. Lại nữa, cái gọi là thơm trong “dáng Kiều thơm” không còn là mùi vị được cảm nhận qua khứu giác mà đó là cảm thức của tri giác, cái thơm được rút ra từ câu chữ: Cảo thơm lần dở trước đèn chăng? Vậy đó, chỉ một chữ Kiều viết hoa mà tình ý thi ca đã khác biệt dường nào!

Đọc và cảm nhận Tây Tiến không khó để nhận ra ảnh tượng chinh nhân, tha hương bước từ huyền thoại. Không khí cổ trang được gợi nhắc toàn bộ bài thơ “gập ghềnh, khúc khuỷu, heo hút” theo mạch cảm xúc. Sự kết dính thấy được của hàng loạt từ ngữ do thi sĩ cố ý dựng lên để thành huyền thoại: hội đuốc hoa - xiêm áo - nàng - chiều sương - hồn lau - đoàn binh - dữ oai hùm - gửi mộng - dáng Kiều - mồ viễn xứ - áo bào, v.v. Rõ ràng, từ ngữ đó gần gũi, dan díu với cảm thức thẩm mỹ trung đại bắt rễ từ những “Chàng tuổi trẻ vốn dòng hào kiệt/ Xếp bút nghiên theo việc đao cung” (Chinh phụ ngâm) đồng vọng bóng chinh nhân. Vẻ đẹp của bài thơ rốt cục là cái tình thật của người lính, lãng mạn trước hiện thực khắc nghiệt, chất chứa khúc tráng ca từ ký ức chợt phút chốc dậy lên, xô lệch cả thời gian hiện thực.

Hy vọng, những chữ khác biệt và phân tích trên sẽ được người yêu thơ, đặc biệt là các nhà soạn sách giáo khoa quan tâm để nếu có thể “đính chính” lại văn bản bài thơ “Tây Tiến”, góp phần minh định nội dung tác phẩm.

Huế, hạ 2021

______

1. Quang Dũng, Mây đầu ô, tập thơ, Nxb. Tác phẩm mới, Hà Nội, 1986

2. Ngoài bài “Nhớ Tây Tiến-1947”, trong cuốn sổ này Quang Dũng còn có chép bài “Trưa hè”.

3. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngữ văn 12, tập một, Nxb. Giáo dục Việt Nam, 2020, tr.87-89.

4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngữ văn 12, sách đã dẫn, tr.88.

5. Cũng có thể định được danh ở đây. Trong bài viết “Con gái nhà thơ Quang Dũng và những hồi ức về cha” đăng trên Tiền Phong (27/02/2017), có đoạn nói rằng chữ Kiều trong bài Tây Tiến chính là “mượn” từ tên nghệ sĩ diễn kịch Giáng Kiều (tên thật là Kiều Dinh), một trong 4 chị em đẹp nhất ở phố Hàng Bông (Hà Nội) vào những năm 1940.

Nguồn Văn nghệ số 21/2021


Trưng bày "Dấu ấn Di sản công nghiệp"

Trưng bày "Dấu ấn Di sản công nghiệp"

Baovannghe.vn - Bảo tàng Hà Nội sẽ tổ chức trưng bày chuyên đề Dấu ấn Di sản công nghiệp vào ngày 4/12, giới thiệu đến công chúng một số nhà máy, xí nghiệp trước năm 1975, nhằm tôn vinh các giá trị của nền di sản công nghiệp trong quá trình đổi mới, sáng tạo hiện nay.
Cơm lạnh - Truyện ngắn của Hương Val Malcot

Cơm lạnh - Truyện ngắn của Hương Val Malcot

Baovannghe.vn - Nghĩ lại cảnh chạm trán đó Ngọc vẫn buồn thỉu người. Cảm xúc đầu tiên thường găm thấu vào tim gan, vĩnh viễn cư ngụ ở đó, khó nhạt đi dầu lòng người đã thay đổi...
Bình minh tím. Truyện ngắn của Nguyễn Xuân Diệu

Bình minh tím. Truyện ngắn của Nguyễn Xuân Diệu

Baovannghe.vn- Trạm phẫu dã chiến chỉ có một ông Bác sĩ già người Hà Nội và bốn cô y tá kiêm hộ lý. Khốn nạn cho Hành, cái thằng coi trời bằng cái vung ấy, đang bị thương mặt mũi vêu vao mà thoạt nhìn thấy cô y tá Thục, hắn đã như bị hút mất hồn. Thục mảnh mai như cành liễu.
Gánh xanh trong giót đầy mắt sông ơi - Thơ Võ Văn Luyến

Gánh xanh trong giót đầy mắt sông ơi - Thơ Võ Văn Luyến

Baovannghe.vn- Những con sông ngày đêm thở than/ cạn dòng
Một góc nhìn đa chiều về Văn học 50 năm sau ngày đất nước thống nhất

Một góc nhìn đa chiều về Văn học 50 năm sau ngày đất nước thống nhất

Baovannghe.vn - Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ V "50 năm Văn học Việt Nam từ 1975: Thành tựu và xu thế", đã được Hội Nhà văn Việt Nam phố hợp với Hội đồng Lý luận phê bình Văn học, nghệ thật Trung ương tổ chức tại Hà Nội.