Sự kiện & Bình luận

Chính phủ Hồ Chí Minh

Phạm Xuân Nguyên
Tiếng nói nhà văn 06:00 | 01/09/2025
Baovannghe.vn - Kỷ niệm 80 năm cuộc cách mạng Tháng Tám và ngày Quốc khánh 2/9, đọc lại những bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong những ngày đầu trứng nước của nền Cộng hòa non trẻ, tôi thấy xuyên suốt tư tưởng của Người là kiến tạo một chính phủ của dân, do dân, vì dân.
aa

Chính phủ Hồ Chí Minh

Bác Hồ đọc Tuyên ngôn độc lập. Tranh bột màu của Nguyễn Dương. Nguồn Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam

1. Đó là Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Một chính phủ mà các thành viên vào đó là làm đầy tớ của dân chứ không phải làm quan cai trị dân. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói như vậy. Và Người tự hào về chính phủ đó của mình, cho rằng nó đáng được phong anh hùng. Ta hãy đọc lại đoạn sau đây Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về chính phủ tại Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua chống Mỹ cứu nước ngày 30/12/1966: “Tôi có một ý kiến bây giờ mới nói ra. Đây là Đại hội anh hùng, có những anh hùng, chiến sĩ, có những đơn vị anh hùng, những tập thể anh hùng rất xứng đáng. Song có một tập thể cũng rất xứng đáng anh hùng mà Ban thi đua không đề nghị. Tập thể ấy là Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chính phủ ta là một chính phủ lâu bền, vững vàng. Trên thế giới không có chính phủ nào mà đã hơn hai mươi năm lãnh đạo nhân dân kháng chiến thắng lợi như Chính phủ ta. Chính phủ ta lại có một cái đặc biệt mà trong thế giới không ai có là lương Chính phủ, từ cụ Chủ tịch Hồ Chí Minh cho đến các đồng chí Bộ trưởng, Thứ trưởng lại ít nhất so với các chính phủ trên thế giới. Các đại biểu thấy Chính phủ ta có anh hùng không? Các cô, các chú, các cháu có hoa đỏ rồi thì ngày mai, ngày kia sẽ được tặng danh hiệu anh hùng, nhưng mà Chính phủ thì không được tặng danh hiệu anh hùng. Bác nói là Ban thi đua thiếu sót chứ Bác không kiện. Bởi vì Chính phủ ta là một chính phủ làm đày tớ của nhân dân, một lòng một dạ phục vụ nhân dân. Nếu ai ở trong Chính phủ mà muốn làm quan thì không ở được trong Chính phủ ta. Bác nói như thế là chẳng những trong chính phủ trung ương mà cả chính phủ địa phương cho đến các ủy ban hành chính xã, nếu ai muốn làm quan thì mời đi làm quan chứ không được ở trong chính quyền của ta” (Băng ghi âm lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I. Văn bản dẫn theo Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12 (1966-1969), trang 190, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000). Những lời này Chủ tịch Hồ Chí Minh nói miệng chứ không phải đọc bằng giấy càng chứng tỏ Người luôn tìm mọi dịp để truyền đạt đến toàn dân toàn Đảng tư tưởng về một chính phủ trong sạch, vững mạnh và hiệu quả vì dân vì nước.

Tư tưởng này của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có ngay khi Người là người đứng đầu Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau ngày 2/9/1945. Chưa đầy nửa năm sau đó Người đã viết bài Tự phê bình để báo cáo với đồng bào rằng: “Những sự thành công là nhờ đồng bào cố gắng, những khuyết điểm kể trên là lỗi tại tôi” (HCMTT, t.4, tr.270). Nhân dân hồi ấy chưa nhiều người biết Hồ Chí Minh là ai, chưa nhiều người tin vào chính phủ mới, nhưng dõi theo lời nói và hành động của người đứng đầu chính phủ thì người ta theo. Người ta càng vững tâm hơn và bắt đầu đặt tin tưởng vào Chính phủ Hồ Chí Minh khi Người nói ra thẳng thắn và rõ ràng mối quan hệ giữa người dân và chính phủ: “Nhân dân có quyền đôn đốc và phê bình Chính phủ. Nếu Chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ. Từ Chủ tịch nước đến giao thông viên cũng vậy, nếu không làm được việc cho dân, thì dân không cần đến nữa” (HCMTT, t.4, tr.283). Khi nói như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nặng trách nhiệm của cá nhân và tổ chức Đảng trước dân, đề cao quyền của người dân được đòi hỏi thay đổi chính phủ làm hại dân. Sao cho được lòng dân? - Câu hỏi này Người nêu ra ngày 12/10/1945, tức là chỉ mới sau hơn một tháng tuyên bố độc lập, và nêu ra trước hết là cho những người trong bộ máy chính quyền. Câu trả lời của Người rất giản dị và cụ thể: “Phải tỏ cho mọi người biết rằng công việc là công việc chung, thiếu người ra gánh vác thì mình ra, nếu có người thay, mình sẽ nghỉ để làm việc khác, sẵn sàng nhường lại cho ai muốn làm và làm được” (HCMTT, t.4, tr.56).

Chính phủ Hồ Chí Minh - đó là điều đã có. Học tập tư tưởng của Người trong đó là có học cách phát huy và hoàn chỉnh kiểu chính phủ Hồ Chí Minh biết và dám chịu sự kiểm soát của dân.

2.

Chính phủ Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng một số thành viên Chính phủ Cách mạng lâm thời ngày 2/9/1945 tại Hà Nội.

Ảnh: TTXVN

Sao cho được lòng dân - đó là niềm đau đáu lo nghĩ suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà Người thường xuyên nhắc nhở các đảng viên, các đồng chí của mình. Ngay sau ngày cách mạng thành công, lập ra một nhà nước mới trên lãnh thổ Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong khi phải đương đầu với nhiều thách thức đối với sự sống còn của chế độ mới non trẻ nhưng vẫn không quên cảnh báo về những nguy cơ mất còn này ngay từ trong nội bộ Đảng và chính quyền, ngay trong hàng ngũ những người cách mạng. Chế độ sẽ sụp đổ nếu những người làm nên chế độ và ở vị trí kiến tạo nên Nhà nước mới không toàn tâm toàn ý vì dân vì nước, không đặt lợi ích của dân và nước lên trên lợi ích cá nhân. Ngay sau ngày đọc Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh ở cương vị Chủ tịch Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã có một tuyên bố rõ ràng cho các nhân viên bộ máy Nhà nước: “Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi của dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh” (báo Cứu quốc, số 46, 19/9/1945). Điều khẳng định này được Người nhắc lại nhiều lần trong các bài viết bài nói của mình, tại nhiều cuộc gặp gỡ, trò chuyện với các “công bộc, đầy tớ” của dân. Chưa đầy một tháng sau bài viết chứa đựng tuyên bố này, Hồ Chí Minh đã có ngay một bài viết khác đặt ra câu hỏi “Sao cho được lòng dân?” để giáo dục cán bộ. Sau khi nêu lên hiện tượng có một số ông chủ tịch, vị ủy viên các ủy ban địa phương bị dân ghét vì cậy thế cậy quyền, Hồ Chí Minh viết: “Muốn cho dân yêu, muốn được lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó đến đâu mặc lòng, những vấn đề quan hệ tới đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho chu đáo, phải chú ý trừ nạn mù chữ cho dân. Nói tóm lại, hết thảy những việc có thể nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của dân phải được ta đặc biệt chú ý” (Báo Cứu quốc, số 65, 12/10/1945). Nói vậy mà vẫn chưa yên tâm, nên chưa tới một tuần sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại có một thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, trong đó Người nhắc lại việc phải làm và phải tránh đối với dân, đồng thời chỉ ra những “lỗi lầm rất nặng nề” của các nhân viên bộ máy chính quyền, đó là: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia rẽ, kiêu ngạo (Báo Cứu quốc, số 69, 17/10/1945). Tôi chỉ dẫn ra mấy đoạn viết của Hồ Chí Minh liên tiếp trong gần một tháng ngay sau ngày thành lập nước để thấy Bác lo sợ nhất là những người cách mạng khi có chính quyền trở thành “quan cách mạng” làm hại dân hại nước. Những lời này từ tám mươi năm trước vẫn còn thời sự cấp bách cho hiện nay. Học tập tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh không phải là nói những cái gì cao xa chung chung, mà là phải thấm nhuần thành hành động cụ thể nỗi lo cho nước cho dân.

“Sao cho được lòng dân?” - đó là câu hỏi mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra. Một câu hỏi lớn mang tầm vóc tư tưởng lớn và tình cảm lớn của Người. Một câu hỏi mà một chính quyền muốn thực sự là của dân, do dân, vì dân phải thường trực đối diện và trả lời.

3.

Trong số các tài liệu Chủ tịch Hồ Chí Minh viết ngay sau ngày độc lập 2/9/1945 có bài báo Chính phủ là công bộc của dân ký tên Chiến Thắng đăng báo Cứu quốc số 46 (19/9/1945). Như tên gọi, bài báo ngắn chỉ tập trung nói một điều Bác Hồ coi là cốt tử đối với chính quyền mới non trẻ đang trong giai đoạn lâm thời khi đó: Chính phủ cách mạng là phục vụ nhân dân. Bác đối lập cái mới và cái cũ ngay mở đầu bài viết: “Non hai tháng trước đây, trước cuộc khởi nghĩa 19/8/1945, nói tới hai chữ Chính phủ người ta nghĩ ngay tới một bọn đầu đảng cướp nguy hiểm, xảo quyệt. Trái lại, ai ai đối với Chính phủ nhân dân hiện nay cũng đều có một cảm tình thân mật xen lẫn với một tôn kính sâu xa”. Người nói thẳng ngay vào vấn đề: “Người xưa nói: quan lại là công bộc của dân, ta cũng có thể nói: Chính phủ là công bộc của dân vậy. Các công việc Chính phủ làm phải nhằm vào một mục đích duy nhất là mưu tự do hạnh phúc cho mọi người. Cho nên Chính phủ nhân dân bao giờ cũng phải đặt quyền lợi dân lên trên hết thảy. Việc gì có lợi cho dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”. Đó là phong cách tư duy, phong cách viết nổi bật của Hồ Chí Minh. Theo đúng phong cách ấy, sau khi nói Chính phủ ở cấp trung ương, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói ngay đến Chính phủ ở cấp địa phương, đó là các Ủy ban nhân dân làng xã. Và cái ý chính phủ là công bộc của dân ở đây Bác không nói về kinh tế, xã hội, mà Người đưa lên hàng đầu là “không được phạm vào công lý, vào tự do của dân chúng”. Người chỉ ra ba điểm cụ thể như sau: một là tránh bắt bớ đánh đập độc đoán, tịch thu tài sản không đúng lý; hai là, tránh lạm dụng công quỹ, chi tiêu tùy tiện; ba là tránh gây bè kết cánh, đưa người trong nhà trong họ vào làm việc với mình.

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là nhà chiến lược thiên tài mà còn là người thực hành sâu sát, cụ thể, tỉ mỉ. Ba nguy cơ cần đề phòng của bộ máy chính quyền cấp cơ sở mà Người nêu ra ngay những ngày đầu dựng nước Việt Nam mới cho đến nay đâu đó vẫn đang tiềm ẩn. Những nguy cơ đó Chủ tịch Hồ Chí Minh như đã nhìn thấy trước và đã báo động khi nó chưa xuất hiện nhưng đã có mầm mống từ trong bản chất quyền lực của chế độ cũ mà Người biết sẽ di truyền sang cấu trúc của chính quyền mới nếu không được phòng ngừa, ngăn chặn.

Phương thuốc Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra chỉ có một vị: tự do dân chủ cho dân, càng là cấp chính quyền cơ sở gần dân thì càng phải để dân được dân chủ tự do. Kết thúc bài báo ngắn của mình, Người viết: “Ủy ban nhân dân là ủy ban có nhiệm vụ thực hiện tự do dân chủ cho dân chúng. Nó phải hành động đúng tinh thần tự do dân chủ đó”. Rõ ràng, rành mạch là thế. Bản chất và chức năng của Chính phủ mới ở trung ương và địa phương là phải tự do dân chủ cho dân chúng và để dân chúng được hưởng tự do dân chủ. Vì dân, do dân - đó là “ham muốn tột bậc” suốt cả cuộc đời cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chỉ khi thực sự vì dân, do dân thì chính phủ mới thực sự là của dân, còn không dân sẽ đối lập với chính phủ.

Kỷ niệm 80 năm ngày Quốc khánh 2/9, Chính phủ Trung ương cùng các “chính phủ địa phương” nên thực hiện một việc: viết hai câu trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh treo ở nơi làm việc cho cán bộ và nhân dân ngày ngày thấy, ngày ngày đọc, ngày ngày thực thi.

4.

Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ vừa tuyên bố ra đời ngày 2/9 thì đến ngày 23/9 quân Pháp đã gây hấn ở Nam Bộ, mưu toan quay lại đô hộ Việt Nam một lần nữa. Chủ tịch Hồ Chí Minh bằng nhãn quan chính trị sáng suốt và tài thao lược cách mạng của mình đã tìm mọi cách ngăn chặn chiến tranh, nhưng vẫn không quên chuẩn bị tinh thần và lực lượng cho toàn dân tộc trong nguy cơ xấu nhất xảy đến. Chủ tịch Hồ Chí Minh ký với đại diện Chính phủ Pháp ở Hà Nội bản Hiệp định sơ bộ 6/3/1946. Người ký với Chính phủ Pháp tại Paris bản Tạm ước 14/9/1946. Trong cả hai văn kiện này, Người có những nhân nhượng về những điều khoản cụ thể để loại bớt kẻ thù, để tranh thủ những điều kiện cần thiết chuẩn bị cho một cuộc kháng chiến có thể đến, nhưng Người không khoan nhượng và thỏa hiệp về nguyên tắc - nền độc lập của Việt Nam, bởi Người biết rõ dã tâm của kẻ xâm lược.

Trong hoàn cảnh ngàn cân treo sợi tóc của dân tộc khi đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ có một niềm tin vào nhân dân làm điểm tựa duy nhất của mình, ngay cả khi Người bị các đảng phái chính trị đối lập cho rằng ký Hiệp định sơ bộ là đã bán nước. Trước khi lên đường sang Paris với tư cách khách mời của Chính phủ Pháp (6/1946), Hồ Chí Minh đã gửi một bức thư cho đồng bào Nam Bộ nói rõ: “Tôi xin đồng bào cứ bình tĩnh. Tôi xin hứa với đồng bào rằng, Hồ Chí Minh không phải là người bán nước”. Chỉ một lời hứa đó thôi, lời hứa giản dị và thiêng liêng, được nói ra công khai, đàng hoàng, của người đứng đầu Chính phủ với người dân, nhất là người dân ở nơi đang đối mặt với kẻ thù xâm lược, đã trở thành một giao kết sắt son của lãnh tụ và nhân dân, của Nhà nước và công dân, làm thành sức mạnh to lớn, vững chắc của lòng yêu nước đánh bại mọi kẻ thù xâm lược. Chủ tịch Hồ Chí Minh hứa với nhân dân của mình, và phơi bày trước nhân dân thế giới âm mưu của kẻ thù để tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế đối với vận mệnh dân tộc mình. Đầu tháng 12/1946 Người viết lời kêu gọi Liên hiệp quốc: “Chúng tôi trịnh trọng tuyên bố rằng nhân dân chúng tôi thành thật mong muốn hòa bình. Nhưng nhân dân chúng tôi cũng kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước” (HCMTT, t.4, năm 2000, tr.1003).

Cả nước Việt Nam tin tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh, ủng hộ nền cộng hòa non trẻ do Người lập nên, quyết chiến với kẻ thù mạnh hơn mình gấp bội và quyết thắng. Trả lời các nhà báo nước ngoài, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói rõ: “Trong một nước dân chủ thì mọi người đều có tự do tin tưởng, tự do tổ chức. Nhưng vì hoàn cảnh và trách nhiệm, tôi phải đứng ra ngoài mọi đảng phái. Nay tôi chỉ có một tin tưởng vào Dân tộc độc lập. Nếu cần có đảng phái thì sẽ là Đảng Dân tộc Việt Nam. Đảng đó sẽ chỉ có một mục đích làm cho dân tộc ta hoàn toàn độc lập. Đảng viên của đảng đó sẽ là tất cả quốc dân Việt Nam, trừ những kẻ phản quốc và những kẻ tham ô ra ngoài” (Báo Cứu quốc, số 147, ngày 21/1/1946; HCMTT, t.4, năm 2000, tr.267-268). Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định lại trong lời tuyên bố tại phiên họp ngày 31/10/1946 của kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa I, sau khi được Quốc hội nhất trí giao trách nhiệm thành lập Chính phủ mới: “Tôi xin tuyên bố trước Quốc hội, trước quốc dân, trước thế giới: tôi chỉ có một đảng, Đảng Việt Nam” (Báo Cứu quốc, số 394, ngày 3/11/1946; HCMTT, t.4, năm 2000, tr.961).

Và ngày 19/12/1946, toàn thể nhân dân Việt Nam đã đứng lên theo Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng của Người làm cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp khi mà sự nhân nhượng của chúng ta đã đi đến giới hạn chịu đựng cuối cùng, không thể chấp nhận được nữa, bởi vì chúng ta càng nhân nhượng kẻ thù càng lấn tới. Chủ tịch Hồ Chí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và cả nước đã đứng lên đánh giặc trường kỳ ba ngàn ngày không nghỉ tới trận đại thắng Điện Biên Phủ buộc kẻ thù phải cuốn gói khỏi lãnh thổ Việt Nam.

Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

Đã tan tác những bóng thù hắc ám

Đã xanh lại trời thu tháng Tám

(Tố Hữu)

Bài học Cách mạng Tháng Tám 1945 mỗi độ thu về lại nhắc ta bài học lòng dân, bài học thống nhất lòng dân vì quyền lợi cao nhất của dân tộc. Bài học đó đã có từ Chính phủ Hồ Chí Minh, một chính phủ vì dân.

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn
Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Baovannghe.vn - Dòng họ Vũ quyết xây lại nhà thờ. Nghe đâu chi phí gần hai chục tỉ, nhất định phải hơn đứt cái nhà thờ mười bốn tỉ rưỡi mới khánh thành của họ Phan. Cả làng xôn xao. Người mừng, người lo. Mừng thì ít mà lo thì nhiều.
Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Baovannghe.vn - Xứ Nghệ là tên gọi quen thuộc chỉ vùng đất thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Cách gọi này chắc có từ khi cả vùng đất đều thuộc trấn Nghệ An, và sau năm 1831, khi đã có tỉnh Hà Tĩnh thì vẫn được dùng cho đến ngày nay.
Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Baovannghe.vn - Khi mặt trời còn chưa ló rạng sau những ngôi nhà đổ nát bởi trận lũ lịch sử, chuyến xe chở 400 thùng sách giáo khoa mới của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam (NXBGDVN) đã vượt hàng trăm cây số, xuyên đêm để kịp về với học sinh xã Hòa Thịnh (tỉnh Đắk Lắk).
Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Baovannghe.vn - Thứ Năm, ngày 4/12/2025, ngày làm việc thứ 35, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV diễn ra tại Nhà Quốc hội, Thủ đô Hà Nội.