Sáng tác

Chú Phi. Truyện ngắn của Nguyễn Trọng Văn

Nguyễn Trọng Văn
Truyện 08:27 | 10/06/2025
Baovannghe.vn - Chú Phi quê ở đâu tôi cũng không chắc. Mẹ tôi bảo nghe đâu như chú quê ở trong khu Bốn cũ, mạn Thanh Hóa hay Nghệ An gì đó.
aa

1.

Rất khó nói nơi nào là quê chú, vì nếu căn cứ vào cách nhả âm “ngã” thành âm “ngả” thì chú phải là người xứ Thanh. Còn trông vào cách nói năng khúc triết và thường hay hắng giọng kiểu lên lớp của chú thì chú chắc phải là người cùng quê với ông đồ Nghệ. Tôi còn nhỏ nên chuyện quê của chú Phi không nhất thiết phải biết. Với tôi thì chú Phi là một người đàn ông tầm băm bảy băm tám, vui tính, tóc húi cua, gương mặt lại xương xương nên thoạt nhìn trông chú có gì đấy rất ngộ.

Ở quê tôi có lệ gọi bố gọi mẹ theo tên đứa con lớn trong nhà, cô chú có thằng con giai lớn, bằng tuổi tôi, tên nó là Phi. Vậy ra mới có tên gọi “chú Phi” hay “dì Phi”. Dì Phi là người em họ của mẹ tôi. Mẹ tôi bảo: “Họ mạc cũng xa xa” nhưng vì dì Phi chơi thân với mẹ tôi từ bé nên họ xa hóa họ gần. Mẹ tôi đi làm cán bộ ngoài thành phố nên đưa dì đi theo. Mẹ tôi xin cho dì Phi làm hộ tá, chuyên chăm sóc cho các chú thương bệnh binh ở trại điều dưỡng. Dì gặp chú Phi ở trại. Chú Phi là bộ đội giải ngũ xong không nhớ quê ở đâu, chú theo dì Phi về quê tôi ở rể.

Chú Phi ngày nào cũng ra ngồi dưới bụi tre to ngay đầu lối vào xóm từ sáng. Cái bụi tre già cỗi chẳng của nhà ai cả, đất quanh gốc mịn thín, những thân tre trơn nhẵn. Bụi tre đó còn là ranh giới giữa xóm Đìa với xóm Dí. Từ ngày quê tôi tiến hành hợp tác hóa thì bụi tre già cỗi ấy trở thành chỗ tụ tập xã viên mỗi sớm đi làm. Chỗ ấy mới sáng sớm đã râm ran tiếng người. Những xã viên hợp tác xã lấy chỗ đó làm nơi chia mạ. Mạ được nhổ về tập kết ở đó từ chiều hôm trước rồi sáng sớm được chia cho từng xã viên. Họ đem chia những bó mạ xanh mơn mởn, được bó chặt ngang lưng trông đẹp như những cô văn công thắt giải khăn lưng, đầu đội nón hoa đi đứng mượt mà trên sân khấu mà tôi đã có lần được mẹ dắt mấy chị em chúng tôi vào xem diễn kịch ở doanh trại bộ đội gần nhà.

Chú Phi ngồi dưới bụi tre từ sáng mà chẳng nhìn ai cả, chú hai tay cầm chiếc kèn ác mô ni ca đã tróc sơn đưa lên miệng. Chú thổi kèn rất chú tâm mặc kệ bọn ve kêu ra rả đến ong cả tai dưới cái nắng hè nồng nã. Tiếng kèn ác mô ni ca vang lên rủ rê đám trẻ con chúng tôi lại gần. Bên bụi tre già lại trong khung cảnh làng quê buổi ra đồng vắng vẻ nên tiếng kèn của chú Phi thêm réo rắt. Chú Phi thổi kèn rất nhiệt tình cho dù có người nghe hay không. Nhưng chú chỉ thổi độc có mỗi một bài. Chú thổi đi thổi lại nhưng lần nào tôi nghe cũng thấy háo hức, tôi thấy chân tay ngứa ngáy như làm cái gì đó.

Chú Phi hỏi: “Bọn mày thích nghe chuyện đánh nhau không?”. Bọn chúng tôi nhao nhao “Chú kể chuyện oánh nhau đi". Chú Phi hạ chiếc kèn xuống, mắt dứ dứ nhìn chúng tôi, giọng nói răn đe. “Kể chuyện đánh nhau để bọn mày đánh nhau à?”. Chúng tôi phải lấy hết sức để hứa rằng nghe xong chuyện sẽ không đánh nhau mà “Chúng cháu chỉ chơi trò oánh trận giả thôi”. Chú Phi kể: “Đêm đó tao được phân công đi nhặt dù tiếp tế. Ừm... bọn mày không thể nào biết được dù tiếp tế là gì chứ gì? Đó là dù ném từ trên trời xuống. Bọn Pháp ở Hà Nội cho thức ăn vào những chiếc hộp to, những chiếc hộp đựng đồ ăn đó lại được đưa lên máy bay để ném xuống trận địa cho lũ lính Pháp co ro như lũ chuột chúi. Ừm... lính ta và lính Pháp nằm cách nhau có khi còn nghe được cả tiếng ngáy của mấy thằng Tây Ma rốc ngủ nữa. Tao lọ mọ trong đêm cứ nhìn thấy cái gì trăng trắng là lao tới túm lấy. Ừm... Không biết cái trăng trắng là gì đúng không? Dù tiếp tế rơi vung vãi đấy. Bọn Pháp trên máy bay cứ ném đại xuống đất. Thành ra nó lại tiếp tế cho cả quân mình mới thích chứ. Đêm ấy tao lò mò mãi mà chưa thấy cái gì trăng trắng cả. Tao bò như con rắn bò loằn nhoằn. Bò mãi cuối cùng tao cũng phát hiện ra cái màu trăng trắng nổi bật trên nền cái gì đấy nhô nhô tối sầm tối sì. Tao trườn thật nhanh đến. Đến chậm để thằng khác đến trước nhặt mất thì mình công toi à. Mà nếu là quân ta nhặt thì đỡ tức chứ mấy thằng Tây Ma rốc nó nhặt thì không xong. Nghĩ thế nên tao tới gần cái màu trắng trắng, ước lượng cự li chắc độ tầm tay là vồ thật nhanh. Tao xoài tay ra chộm rất mạnh. Từ cái màu trắng trắng tay tao chạm vào thứ gì sắc tưởng đứt ngón tay ừm... bọn mày biết không? Cái màu trăng trăng đó lại chính là hàm răng của thằng Tây Ma rốc. Kinh khủng thật, thằng Tây Ma rốc răng trắng nhởn nằm chết nhẽo từ bao giờ, nó chết mà há hốc cả mồm ra, hàm răng trắng đầy răng của nó làm tao tưởng là dù tiếp tế.

Chú Phi lại cầm chiếc kèn ác mô ni ca lên thổi. Bài hát đã rộn ràng lại được chú thổi lên nghe càng rộn ràng. Tôi lân la gạ gẫm “Hay là chú dạy cháu thổi kèn với”. Chú Phi lừ mắt rồi gật gật. Chẳng hiểu thế là chú đồng ý sẽ dạy tôi thổi kèn hay chứ bảo không được. Chúng tôi ngồi quanh chú dưới chân bụi tre cho đến khi những người xã viên đầu tiên đi cấy xong trở về.

Đó là mùa hè năm 1966. Tôi vừa học xong thì được mẹ tôi cho về quê chơi cho đỡ cuồng cẳng. Quê tôi nằm gần đường 5, nó được nối với Hà Nội bằng chuyến xe buýt chạy mỗi ngày một chuyến. Thứ xe buýt hồi đó còn được gọi là xe “Thống nhất” vì nó là loại xe chở khách có thêm toa moóc kéo do ta đóng và chiếc đầu xe có gắn dòng chữ “Thống nhất”.

2.

Mùa hè năm ấy Mỹ cho máy bay ra ném bom Hà Nội.

Chú Phi lúc ấy đang ngồi dưới gốc tre thổi kèn ác mô ni ca. Sáng nay chú thổi rất say sưa, mắt chú nhắm tít, bàn chân chú bỏ ra ngoài đôi dép cao su gõ từng nhịp đều đều xuống đất, đầu chú lắc lư theo giai điệu của lời ca “Cướp được nhiều súng của giặc thời hả sao hả ghê. Giết được nhiều giặc lại càng khoái sao khoái thế. Lũ giặc bại trận đành là phải quy hàng. Hát mừng bộ đội “tình bằng chiến thắng ta hò vang”. Tiếng kèn của chú cứ bay vút lên, nhập nhòa vào cành tre xõa tóc hát trong nắng. Tiếng kèn đột ngột đứt quãng khi những tiếng gầm rú vang lên trên bầu trời. Tiếng kèn ngừng đột ngột như bất chợt nó bị rơi từ trên trời xuống với cú rơi tự do không cứu vãn được. Chú Phi bỗng biến thành một người khác lạ. Mắt chú căng ra thảng thốt. Toàn bộ nét mặt của chú lúc đó như một chiếc trống. Sự căng thẳng kiểu sắp vỡ làm tôi phát hoảng. Chú Phi buông rơi chiếc kèn ác mô ni ca, người chú cong rướn lên rồi chú ghì hai tay vòng ôm lấy ngực. Trên trời từng đàn máy bay Mỹ gầm rú lao sầm sập về phía Hà Nội. Chúng phát ra những tiếng động làm bụi tre ngiêng ngả. Tôi có cảm giác gió từ đâu đưa tới lạnh ghê ghê trên tóc. Chú Phi bần thần chốc lát rồi bất chợt chú giang hai tay ra, chú vòng tay giữ lấy từng đứa trong đám bọn chúng tôi, mắt chú vẫn trợn căng nhìn trừng trừng lên trời.

Tôi nhớ có lần mẹ tôi kể: “Chú Phi tuy đi bộ đội đánh trận nhưng chú không bị thương. Chú ấy chỉ là bệnh binh thôi. Bệnh binh nên chẳng được hưởng chế độ gì”. Tôi hỏi lại mẹ: “Bệnh binh nghĩa là gì?”. Mẹ tôi hừ hừ không nói. Mãi khi quen với chú Phi rồi tôi mới hỏi chú, chú Phi cười hồn nhiên đưa chiếc kèn ác mô ni ca lên ngang miệng. Chú lại thổi bài hát quen thuộc “Thắng trận rồi mới về làng thời hả sao hả hê. Bố mẹ họ hàng này khoái sao khoái thế”. Tính chú Phi là thế. Chú chỉ cười và thổi kèn thôi. Tiếng kèn của chú làm cái xóm nhỏ heo hắt dưới những bụi tre gai tự dưng nhộn nhịp. Chú Phi cười nói vui: “Trông mày i như bọn tao hồi dầm mình trong giao thông hào. Có đến cả tháng không được tắm. Mà đánh trận thì tắm vào lúc nào”. Chú lại cười hồn nhiên, lại cầm kèn lên thổi.

Chú Phi kể: “Chiến dịch bước vào giai đoạn hai thì tao được phát một cái cuốc. Bọn mày tính, lính xung kích lăm lăm súng trường lưỡi lê tuốt trần mà cả tháng trời chỉ mỗi việc chúi đầu vào giao thông hào thì ức lắm. Ừm... bọn tao chuyển sang công tác khai triển hào giao thông. Ban ngày nằm khểnh hứng mưa, lắng nghe tiếng pháo của ta và địch thi nhau bay vèo vèo qua đầu. Đêm đến mới quay ra đào bới. Tao cầm cuốc nên được phân công đào đằng trước. Đất đào xong ủn về phía sau cho anh em khác hất lên thành. Cứ thế bọn tao dùi dũi như con bọ hung, đêm đêm mở rộng vành hào giao thông. Ừm... tụi mày bảo cuốc cán dài thì nằm mà đào thế nào được ư? Chúng mày khôn nhưng chưa ngoan. Cái cán cuốc được bọn tao chặt ngắn lại chỉ vừa hai nắm tay thôi. Thấy chưa? Ừm... khôn lên một chút là được việc ngay....”.

Mấy hôm sau mẹ tôi về quê. Chuyện đầu tiên mà mẹ tôi nói với chị em chúng tôi là chúng tôi hết hè cũng không về Hà Nội nữa “Cả thành phố phải đi sơ tán. Chỉ ai có nhiệm vụ sản xuất mới được ở lại nội thành”. Nhân nghe mẹ nói chuyện Mỹ ném bom tôi tồ tồ nói thẳng toẹt “Chú Phi là bộ đội gì mà sợ tiếng máy bay Mỹ lắm ạ". Tôi nói nhanh quá làm hai chị tôi không kịp ngăn. Mẹ tôi mặt buồn trông thấy, mẹ cúi đầu nói một mình “Cứ tưởng hơn mười năm rồi chú Phi đã tĩnh tâm trở lại”. Mẹ chép miệng nói thế mà tôi đâu có hiểu.

Chú Phi. Truyện ngắn của Nguyễn Trọng Văn
Hình ảnh minh họa. Nguồn Internet

3.

Chú Phi thành “ông Phi điên”. Một ông điên hiền lành. Bởi chú tuy gọi là điên nhưng không đập phá, hò hét hay chạy lăng nhăng ngoài đường. Chỉ thấy chú Phi bỗng chốc tiều tụy, bơ phờ và đặc biệt là chú luôn sợ tiếng động mạnh. Sau đợt ném bom vào kho xăng Đức Giang, máy bay Mỹ tăng cường ném bom Hà Nội nhiều hơn. Quê tôi không bị ném bom nhưng lại là nơi máy bay Mỹ bay vào bay ra, thành thử chẳng ngày nào là vắng tiếng máy bay Mỹ cả. Bọn Mỹ cho sử dụng toàn loại máy bay nhanh gấp hai gấp rưỡi lần tiếng động nên mỗi khi chúng bay qua là bầu trời rền rĩ đến cây cỏ dưới đất cũng rung lên ngiêng ngả. Mỗi lúc như thế “ông Phi điên” lại ôm chặt lấy đầu, miệng ú ớ những câu không rõ tiếng.

Dì Phi có lần đã kể: "Dì làm hộ tá ở trại điều dưỡng, nghĩa là chăm sóc cho các thương bệnh binh nặng ở khắp các mặt trận về. Có người ở tận trong miền nam. Có người lại là người dân tộc thiểu số. Mỗi người mỗi quê nhưng có chung một điểm là họ đều là thương binh chống thực dân Pháp và cần có người chăm sóc. Một bữa dì được phân công sang khu B có việc. Dì gặp chú Phi ở đó, chú ngồi thổi kèn trên chiếc ghế đá dựng bên gốc cây ngay lối đường đi. Chú hiền lành và có lẽ là bệnh binh duy nhất ở trại không cần có người chăm sóc. Trái lại khi dì hỏi thăm nhà chỉ huy ở đâu chính chú lại là người chỉ đường cho dì. Chú dẫn dì đi qua rặng nhãn xanh đặc mầu lá tới nhà chỉ huy khu B... (dì Phi ngừng kể, dì cười xấu hổ). Rồi chẳng hiểu duyên số thế nào dì với chú phải lòng nhau mới kỳ chứ. Dì thấy chú hiền lành, ai nhờ việc gì cũng giúp hăng hái. Chú tiễn dì về tới tận nơi dì ở".

Rồi gần quê tôi cũng bị máy bay Mỹ ném bom. Hôm đó cả làng vắng vẻ lắm. Chúng tôi ngồi dưới bụi tre như mọi bữa. Chú Phi cũng ngồi đó. Lâu rồi chú không thổi kèn nhưng chiếc kèn chú cứ cầm chặt trong tay. Chú Phi đang ngồi im lặng, tay mân mê chiếc kèn thì máy bay Mỹ ào tới. Cả lũ chúng tôi dồn hết cả vào gốc tre, hai chân nhũn ra khiến chẳng đứa nào chạy được. Chú Phi ôm chặt lấy đầu. Chiếc kèn rơi xuống đất, lăn mấy vòng mới vấp phải chân tôi. Tôi nhặt vội đút trong túi quần và cùng dúm vào gốc tre mà sợ hãi nhìn lên trời. Dưới bụi tre cành lá nghiêng ngả mắt tôi nhìn thấy những quả bom lừ lữ, đen kịt nối nhau thành chùm dài lao nhanh xuống đất. Một nỗi sợ hãi bao trùm và tôi đã nghĩ mình sẽ chết bởi những quả bom kia. Bất chợt chú Phi mắt hướng lên trời nhìn đăm đăm rồi cười sằng sặc.

Chú Phi đã kể: "Bọn tao cứ nhè lúc quân Pháp bỏ bom hay bắn pháo là đào thật lực. Ừm... chúng mày không hiểu à? Nghe được tiếng đạn pháo bay vèo vèo trên đầu là yên tâm. Nhìn bom nó ném xuống mà thấy cả hình trái bom thì cóc sợ. Ừm... như thế là đạn bom nó đi chỗ khác. Bọn tao tranh thủ khi đó hất đất hối hả. Bọn mày biết không, lũ lính Pháp nhát bỏ mẹ, thấy đạn bay, bom nổ là rúc tuốt trong hầm. Ừm... thế là mình đào cho nhanh. Lúc ngớt đạn bom dễ đoạn giao thông hào đã tới sát chân chúng ấy chứ lị".

4.

Tôi nhớ có lần chú Phi kể cực nhất là mưa. Ở ngoài mặt trận nếu không sương mù giăng kín trời thì mưa dầm dề thối đất. Ừm... bọn tao toàn thân nhoe nhoét bùn là bùn, chúi đầu tránh đạn bắn thẳng của quân Pháp. Mỗi lần chúng sổ ra hàng tràng liên thanh, đạn bay chiu chíu, lơ ngơ là mất cái đội nón như chơi. Ừm... nước mưa làm đất nhão ra đào đã khó, hất lên lại khó hơn. Tao vừa hất lên bờ được một xẻng đất thì bùn trôi xuống cả đống. Ừm...". Chú Phi cười, lần đầu tiên tôi thấy chú cười.

Chú Phi mất thật đột ngột. Tôi mân mê chiếc kèn nhớ lại những hôm nghe chú Phi thổi kèn. Chú Phi ngồi dưới bụi tre, hai tay cầm chiếc kèn lia ngang miệng. Chiếc kèn cứ lia đi lia lại trên đôi môi của chú bật lên giai điệu. Những giai điệu chiến thắng cứ ngân nga ngân nga. "Giết giặc rồi mới về làng thời hả sao hả ghê. Ôi nàng vừa đảm lại vừa em... khá sao khá thế...".

Mẹ tôi kể: "Bệnh của chú Phi chỉ cần có thời gian yên ắng thôi. Hồi dì Phi chúng mày yêu chú Phi ở trại điều dưỡng mọi người tán thành lắm. Quê mình nằm giữa đồng bằng nên vắng vẻ. Chú Phi cần được nghỉ ngơi yên tĩnh là sẽ bình phục. Nên khi dì Phi đặt vấn đề cùng chú Phi về quê ai cũng ủng hộ. Mười mấy năm rồi tưởng chú đã bình phục, ai dè". Tôi cầm chiếc kèn cứ ân hận sao hôm nhặt lên tôi không đưa trả chú ngay. "Con không ăn cắp của chú Phi đâu" tôi ngập ngừng nói với mẹ tôi như vậy. Mẹ tôi vỗ vỗ lên đầu tôi an ủi "Bữa nào về quê đem trả cho dì Phi. Chú Phi quý chiếc kèn ấy lắm".

Dì Phi kể: "Dì thấy chú ngồi một mình nên lại gần xem sao. Ở trại điều dưỡng toàn thương bệnh binh nặng nên phải chú ý ngộ nhỡ có đồng chí nào làm sao thì khuyết điểm lớn. Dì lại gần thấy chú Phi đang cầm trên tay chiếc kèn. Dì hỏi dò xem thế nào "anh có thổi được kèn không?". Chú Phi không ngẩng mặt lên nhìn dì nhưng vẫn trả lời "Bạn tôi chỉ kịp đưa chiếc kèn này cho tôi thì hy sinh". Dì thấy thật khó nói chuyện nào cho hợp nên cứ đứng đực người ra, chú Phi quay lại thấy bộ dạng như thế của dì thì lặng lẽ đưa chiếc kèn lên miệng. Thú thực lần đầu tiên dì được trực tiếp nghe một người thổi kèn. Chú Phi thổi xong một bài thì nhìn thẳng vào dì hỏi "Đồng chí muốn nghe thêm nữa không?". Dì quen chú trong hoàn cảnh như thế".

5.

Bẵng đi thời gian khá dài, chuyện chú Phi tôi quên lúc nào chẳng rõ. Cho mãi bốn mươi năm sau câu chuyện ấy mới có dịp được nhắc lại. Hôm ấy tôi có việc về quê nhân tiện ghé qua nhà thằng Phi. Trong điện thoại thằng Phi nói với tôi: "Em cưới cho thằng con đầu. Mời hai bác và cũng là em có chuyện muốn hỏi bác". Tôi giật mình nhớ tới chiếc kèn ác-mô-nica mà tôi hứa sẽ đem trả lại cho dì Phi ngày nào. Thú thực chiếc kèn ấy qua mấy bận sơ tán đã thất lạc từ khi nào. Nghe thằng Phi nói như thế tôi mới ân hận lời hứa của mình đã thành lời hứa suông. Do vậy sau khi xong công việc tôi ghé ngay lại nhà thằng Phi. Tôi thầm nhủ "Xin lỗi nó vì chuyện chiếc kèn". Thằng Phi nghe tôi nói thế xua tay cười ngặt "Chiến tranh giặc giã, người còn là may. Em muốn xin ý kiến bác về ông cụ nhà em".

Thì ra vợ chồng thằng Phi vừa xây xong ngôi mộ cho chú Phi và dì Phi. Hai ngôi mộ đặt cạnh nhau cứ như hồi chú Phi và dì Phi còn sống. Đúng là "Phú quý sính lễ nghĩa", vợ chồng thằng Phi làm ăn khấm khá nghĩ đến bậc sinh thành xây cất mộ to đẹp là phải đạo. Thằng Phi giục tôi uống nước và vào đề: "Hồi còn sống, cả mẹ em cũng như mẹ của bác đều có ai biết quê bố em ở đâu đâu. Nay mộ đàng hoàng cũng phải có cái bia mộ tử tế chứ. Cái bia cũng là để con cháu em nó còn biết ông bà chúng nó quê quán nơi đâu. Nói thật với bác, em đinh ninh sẽ đưa con cháu về quê nội cho đỡ tủi. Ở đời, quê quán là gốc là rễ vậy mà gốc rễ nằm đâu không rõ cũng chưa an".

"Hay là ... chú thắp cho ông cụ tuần nhang nữa. Tôi với chú khấn ông cụ xem sao. Biết đâu ông cụ sống khôn chết thiêng, thương con thương cháu, hiện về mách bảo".

Trên ban thờ tấm ảnh chú Phi còn như ngày nào ngồi chơi kể chuyện đánh nhau cho bọn tôi nghe. Tấm ảnh thật sáng, trong ảnh là chú Phi tầm băm bảy băm tám tuổi đang nhìn chúng tôi dò đoán. Gương mặt chú vẫn ngồ ngộ với mái tóc húi cua ngắn, nét xương xương nhiều vất vả. Chú Phi của chúng tôi như đang ngồi dưới bụi tre già, hai tay cầm chiếc kèn tróc sơn. Chú say sưa thổi "Bắn được nhiều chiếc phản lực thời hả sao hả ghê. Bắn chìm tàu giặc lại càng khoái sao a khoái thế". Tiếng kèn của chú đang réo rắt, đang giục giã, nó cứ vang vang, cứ lằng lặng lan lan giữa đám khói nhang trên ban thờ. Tôi như thấy chú Phi đang mỉm cười hài lòng. Chúng tôi cùng khấp khởi chờ đợi chú linh thiêng hiện về mách bảo.

Hết một tuần nhang, chú Phi trên tấm ảnh vẫn nín thinh. Ánh mắt của người quá cố lúc gần lúc xa, khi trìu mến khi lãnh đạm. Tôi và thằng Phi lại châm tiếp tuần nhang nữa, hy vọng từ nơi xa thẳm nào đó sự linh nghiệm sẽ trở về.

Chú Phi kể: "Càng vào sâu chiến dịch, đạn bom càng ác liệt. Ừm... mấy tháng trời bọn tao dầm mình trong bùn và máu. Ừm...máy bay ở đâu ra mà lắm thế, chúng bay sát đầu phát ra âm thanh lộng óc. Nhất là khi chúng bổ nhào thả bom thì thôi rồi, âm thanh cứ như dựng người mình dậy cho dù bọn tao đã dán cả mình trong hào giao thông. Rồi đạn pháo của ta nữa chứ, gầm lên oai hùng lắm. Đạn bay đỏ đêm lao vun vút vào đồn địch. Ừm... khoái thì khoái rồi, bọn Pháp chắc chết đến nơi nên chúng càng cho máy bay quần lượn. Khiếp, tao không còn biết đâu là pháo ta đâu là bom địch nổ nữa. Ừm... khủng khiếp...".

Dì Phi kể: "Chú Phi ngày ấy hiền lắm, lại nhát nữa (ý dì nói hồi dì làm hộ tá ở đoàn an dưỡng). Chú có dám lại gần dì đâu, chỉ đứng phía sau nhìn dì làm dì nóng hết cả lưng (dì Phi cười ngượng nghịu). Có bữa dì quay lại bất chợt rất nhanh làm chú Phi không kịp quay mặt đi. Chú lúng búng nói câu gì dì nghe không rõ. Dì hỏi: Anh có về quê với tôi không?Chú ấy lại gần nắm lấy tay dì hỏi lại: Cô cho tôi về quê cô chứ?".

Tôi đã nản chí vì chờ đợi chú Phi hiện về mách bảo bèn quay ra bảo thằng Phi: "Hay là tìm xem giấy tờ cũ ấy. Biết đâu có manh mối nào". Thằng Phi miệng nói tìm mãi rồi nhưng cũng lần nữa chạy vào gian buồng lục lọi. Lát sau nó bước ra đưa cho tôi cả mớ giấy tờ ngả mầu vàng lẫn mốc đen rất khó đọc. Tôi cẩn thận tìm tòi từng chữ một nhưng càng tìm càng vô vọng. Đúng là nếu đã biết quê chú Phi ở đâu qua giấy tờ thì dì Phi đã biết. Hồi còn sống mỗi khi hỏi quê là chú Phi lại ớ ra, mặt ngơ ngác nghĩ, tay gãi gãi mãi vào mấy sợi tóc cắt cụt lủn. Rồi chú cười lảng ra, lại cầm chiếc kèn đi ra đầu ngõ. Chú Phi ngồi dưới bụi tre, bọn trẻ con chúng tôi xúm chung quanh mồm há ra nghe chú thổi kèn."Khắp cả đường làng rợp trời cờ đỏ sao vàng. Hát mừng bộ đội tình bằng chiến thắng ta hò vang...".

Tay tôi chạm vào một chiếc hộp nhỏ vuông vuông làm bằng sắt tây. Nó vốn là chiếc hộp đựng thuốc lá Cô-táp dành cho lính Pháp. Chiếc hộp xinh xinh như chưa lần nào mở khiến tôi tràn đầy hy vọng. Tôi thong thả cậy nắp hộp lâu ngày không ai đụng tới như cẩn thận với đồ vật dễ vỡ. Bên trong chiếc hộp là một chiếc huy hiệu nhỏ, có hình một chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam đang trong tư thế giương súng ngắm bắn. Hình ảnh người chiến sĩ nổi bật trên nền vàng của mầu lúa chín. Phía sau hình người chiến sĩ hiên ngang đó là hình lá cờ đỏ sao vàng tung bay và dòng chữ xuân 1954 mầu đỏ. Tôi reo lên sung sướng làm vợ chồng thằng Phi cùng nhào đến bên. Chiếc huy hiệu ghi rành rõi dòng chữ "Chiến sĩ Điện Biên Phủ", như một ánh sáng lóe lên. Tôi nói to với vợ chồng thằng Phi "Đây rồi. Đây rồi". Mắt vợ chồng thằng Phi rạo rực hẳn lên.

Một tuần sau tôi lại về quê, không phải để ăn cưới con lớn của vợ chồng thằng Phi, mà cùng hai vợ chồng nó mang tấm bia đá ra đặt ở phần mộ cô chú Phi. Từ phía đông những tia nắng hè dọi tới, tấm bia trên phần mộ chú Phi như sáng lên. Trên tấm bia đó nổi bật dòng chữ được khắc ngay ngắn: "Phần mộ ông Nguyễn Văn Hoạt (tên thường gọi là chú Phi), Chiến sĩ Điện Biên Phủ, mất ngày mùng 15 tháng 7 năm 1966".

Bất chợt tôi nghe từ thẳm sâu vọng lên tiếng kèn ác-mô-ni-ca tróc sơn. Tiếng kèn say sưa. Tiếng kèn mời gọi. Tiếng kèn dắt dây đám trẻ con chúng tôi. Tiếng kèn giữa trưa hè dưới bụi tre già ngân vang.

Văn nghệ, số 16/2014
Tổng Bí thư ký quyết định thành lập 23 đảng bộ các tỉnh, thành mới sau hợp nhất

Tổng Bí thư ký quyết định thành lập 23 đảng bộ các tỉnh, thành mới sau hợp nhất

Baovannghe.vn - Tổng Bí thư Tô Lâm vừa ký ban hành các quyết định của Bộ Chính trị về việc thành lập đảng bộ các tỉnh, thành phố sau khi thực hiện sáp nhập, hợp nhất.
Trống Bát nhã và Chuông sẽ cùng cử hành tại các ngôi chùa vào ngày 1/7

Trống Bát nhã và Chuông sẽ cùng cử hành tại các ngôi chùa vào ngày 1/7

Baovannghe.vn - Ngày 25/6, Hội đồng trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam (GHPGVN) đã ra văn bản đề nghị các tự viện trên cả nước cử hành ba hồi chuông trống cầu quốc thái dân an vào sáng 1/7. Văn bản do Trưởng lão Hòa thượng Thích Thiện Nhơn - Chủ tịch Hội đồng trị sự - ấn ký.
Vì sao đây - Thơ Hà Đức Hạnh

Vì sao đây - Thơ Hà Đức Hạnh

Baovannghe.vn- Người cao hai mét đã thành kỷ lục rồi/ Nội tạng thứ nào chưa thay chưa sửa
Thông cáo báo chí số 34, Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV

Thông cáo báo chí số 34, Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV

Baovannghe.vn - Thứ Tư, ngày 25/6/2025, Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khóa XV tiếp tục ngày làm việc thứ 34 tại Nhà Quốc hội, Thủ đô Hà Nội dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn.
Danh sách Chủ tịch UBND các tỉnh, thành mới sau sáp nhập

Danh sách Chủ tịch UBND các tỉnh, thành mới sau sáp nhập

Baovannghe.vn - Ngày 24/6/2025, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã ký các Quyết định chỉ định nhân sự giữ chức vụ Chủ tịch UBND các tỉnh, thành mới sau sáp nhập.