Sáng tác

Kỉ vật chiến tranh. Truyện ngắn của Trịnh Tuyên

Trịnh Tuyên
Truyện 06:00 | 21/10/2025
Baovannghe.vn- Khi xe khách vào đến bến xe Đà Nẵng thì chiều đã muộn. Rút điện thoại, định gọi taxi đến đón thì ngay lúc đó, có một người đàn ông dáng cao gầy, nước da màu nâu sậm, lái chiếc xe Dream cũ lượn đến đỗ sát bên cạnh tôi.
aa
Kỉ vật chiến tranh. Truyện ngắn của Trịnh Tuyên
Minh hoạ: Nguyễn Huy lộc

Đôi mắt màu nâu có ánh nhìn chân thật của anh ta ngước nhìn tôi, vẻ mặt đầy hi vọng sẽ gặp được cuốc xe cuối cùng trong ráng chiều hoàng hôn trên thành phố sắp lặn.

Khi xe khách vào đến bến xe Đà Nẵng thì chiều đã muộn. Rút điện thoại, định gọi taxi đến đón thì ngay lúc đó, có một người đàn ông dáng cao gầy, nước da màu nâu sậm, lái chiếc xe Dream cũ lượn đến đỗ sát bên cạnh tôi. Đôi mắt màu nâu có ánh nhìn chân thật của anh ta ngước nhìn tôi, vẻ mặt đầy hi vọng sẽ gặp được cuốc xe cuối cùng trong ráng chiều hoàng hôn trên thành phố sắp lặn.

“Ông về đâu để coong coong đưa?”

Tôi ngạc nhiên, nhìn ông ta cũng tầm tuổi tôi mà lại xưng ông con với nhau? Tiếng xưng coong, coong, giọng điệu rất riêng, hình như tôi đã từng nghe ở đâu đó từ xa lắc xa lơ. Bây giờ nghe lại, cái âm vực ấy, gợi cho tôi cảm giác như đang vọng về từ quá khứ xa thẳm.

Dĩ nhiên là gọi taxi đi nhanh và an toàn hơn, nhưng không hiểu sao, tôi không nỡ từ chối người lái xe ôm này. Tăng thu nhập cho một người trong lúc khó khăn, góp thêm niềm vui cho họ, cũng là một hạnh phúc, tôi nghĩ. Thôi đi xe ôm, nhìn tận mắt sự đổi thay của của một thành phố biển sau gần 50 năm giải phóng, tôi mới có dịp quay trở lại.

Đặt chiếc cặp màu đen ở giữa hai người, tôi ngồi áp sát vào tấm lưng gầy của người xe ôm thành một khối cho thật chắc. Lên xe rồi nhưng lòng tôi vẫn còn áy náy, nghĩ dại, mình đâu phải thiếu tiền, không gọi taxi cho an toàn, lại ngồi sau lưng cái gã xe ôm còm nhom này, nhỡ xảy ra vấn đề gì, có phải dại mặt không?

Nhưng mà nỗi lo của tôi nhanh tan biến vì “nước đi” của gã xe ôm này chắc chắn với những vòng cua êm như lụa, chiếc xe máy đi như lướt trên đường.

Vì ngồi sát gần nên tôi nhìn cận cảnh đám chân tóc đã bạc trên gáy và hai vành tai của anh ta. Một vết thương trên vành tai rất ấn tượng: lỗ thủng hình tròn sát thái dương, với những đường viền tua rua như một chiếc mục nhĩ bị ai đó dùng que nhọn chọc thủng. Chắc chắn phải có một vật nhọn nào đó đã xuyên qua phần sụn của vành tai nên mới để lại lỗ thủng tròn vành vạnh như thế. Vì các tổ chức sụn không phát triển, nên dù thời gian có dài bao nhiêu đi chăng nữa, vết thương không thể liền lại, nên mới để lại lỗ thủng rất lạ kì này.

Có thể đây là dấu vết của một viên đạn bắn sượt qua đầu, xuyên qua vành tai? Người bình thường không ai dại gì tò mò về chuyện riêng tư của người khác, nên sẽ không bao giờ hỏi. Nhưng với tôi khi đó, như có linh tính mách bảo, tôi chợt nhớ lại hình ảnh người lính Việt Nam Cộng hoà ôm đứa con mới vừa sinh được hai ngày đang chạy trốn trong rừng, trên tai có một lỗ thủng do một viên đạn lạc xuyên qua, máu chảy ròng ròng xuống cổ tái hiện trong kí ức của tôi. Liệu có thể cuộc gặp gỡ không hề có hẹn trước, lại trùng hợp như một định mệnh mà Đức chúa trời đã bày đặt từ trước không?

Không nén được dòng kí ức thôi thúc, tôi đột nhiên cất lời:

“Này bác xe ôm! Xin lỗi vì sự tò mò của tôi nhé! Bác có vết thương ở tai hay đấy! Bị tai nạn từ bao giờ vậy?”

Người lái xe ôm không tỏ ra khó chịu vì sự tò mò của ông khách. Anh ta trả lời rất vô tư.

“Dạ! Vết thủng ấy là do một viên đạn lạc xuyên qua đó ông! Không biết từ phía trước hay phía sau, coong cũng không biết nữa. Ngày ấy, chỉ cần viên đạn lệch vào nửa đốt ngón tay nữa là coong tiêu đời rồi!”

Câu trả lời và giọng nói, khiến tôi phập phồng trong lồng ngực. Ồ biết đâu được, định mệnh lại cho tôi gặp lại một người lính phía bên kia chiến tuyến từ gần 50 năm trước? Anh ta cũng bị viên đạn lạc xuyên qua vành tai và cũng đã xưng là coong với tôi như thế.

“Anh đã từng đi lính à? Phía bên nào vậy?”

“Dạ! Coong là lính phía bên quốc gia.”

Tôi chột dạ! Tim tôi lại đập thập thình. Liệu có phải là anh ta? Nếu đúng là người lính ngày ấy thì tôi tin là con người ta có số mệnh…

*

Những tiếng nổ long trời lở đất ngớt dần rồi im lặng. Tia nắng cuối ngày lọt qua vòm lá rớt xuống lớp thảm mục của rừng già Cheo Reo Phú Bổn. Trận đánh diễn ra theo đúng kịch bản. Ngoài đường số bảy, quân ta đang tập trung truy kích địch, lính Việt Nam Cộng hoà cùng với gia đình họ đang tháo chạy về đồng bằng theo lệnh triệt thoái khỏi cao nguyên.

Đại đội tôi được phân công truy kích tàn quân địch lẩn trốn trong rừng. Thấy tình hình phía trước đã tạm ổn, tôi cùng hai chiến sĩ trong đại đội định quay về hầm chỉ huy lấy đồ dùng cá nhân rồi luồn lách theo lối mòn quay lại tuyến sau. Vừa bước được vài chục mét thì bắt gặp ba tên lính bên kia đang nháo nhác dưới những gốc cây tìm đường trốn chạy. Trông thấy chúng tôi, cả ba hoảng hốt bỏ chạy thục mạng về phía cánh rừng. Tôi hô lớn “Đứng lại!” và điểm chỉ thiên mấy phát thị uy. Đồng thời tôi ra lệnh hai chiến sĩ cùng đi với tôi: “Phải bắt sống! Không được bắn chết.”

Loạt đạn cày tung đất phía trước mặt họ. Thấy một tên đổ gục xuống, nằm khòng khoeo, hai tay ôm khư khư một bọc gì đó giống như con nhện ôm bọc trứng, còn hai tên kia thì chấp hành lệnh, bỏ súng, đứng như trời trồng, giơ hai tay xin hàng.

Chúng tôi tiến sát. Tên lính đổ gục lồm cồm đứng dậy, hai tay vẫn ôm khư một cái làn nhựa màu xanh, bên trong có một bọc vải. Thì ra là hắn giả chết. Khôn gớm! Rất may cho họ, là cả ba người không bị một tí sây sát nào. Tôi giao cho đồng đội dẫn cả ba người về tuyến sau cùng với hai khẩu súng chiến lợi phẩm. Tên lính ôm chiếc làn không mang súng. Không hiểu sao, tên lính vừa đổ gục giả chết ban nãy, hai tay ôm một bọc gì đó đặt trong chiếc làn nhựa, chiếc làn mà mấy bà mấy chị hay xách đi chợ. Ánh mắt anh ta rất lạ, cứ lấm lét nhìn tôi. Hình như anh ta muốn nói điều gì nhưng không dám. Tôi quát lớn: “Anh kia dừng lại! Tay đang ôm cái gì vậy?”

Anh ta hoảng hốt ngồi thụp xuống, miệng cuống quýt: “Dạ! Thưa ông giải phóng! Đây là coong của coong.”

“Coong của coong là cái quái gì?”

Hai tay run run, mắt ngước nhìn tôi, hình như anh ta muốn cầu xin tôi một việc gì đó.

Bây giờ tôi mới nhìn kĩ, một khuôn mặt còn rất trẻ mà sao gầy quắt, một bên vành tai của anh bị một vết thủng, máu chảy thành vệt dài xuống cổ, đỏ lòm lòm, đông lại thành cục.

“Dạ! Đây là coong của coong,” Anh ta cúi rạp xuống đất, người run lên bần bật.

Có chút nghi ngờ! Anh ta là lính tháo chạy, lại còn ôm theo một vật theo mình. Thấy có gì đó bí ẩn, tôi quát lớn: “Mở ra cho tôi xem!”

Tay run run, anh ta nhẹ nhàng mở bọc vải lót ra. Trời ơi! Tôi không tin vào mắt mình nữa. Đó là một đứa bé trai trần truồng, đỏ hỏn, chỉ nhỉnh hơn bắp tay, da nhăn nheo như da cụ già. Đôi môi bé tí, đỏ chót, tóp tép như đang khát sữa lắm. Tôi thốt lên trong sự thương xót.

“Trời ơi! Sao anh nỡ mang theo nó trong hoàn cảnh như thế này?”

“Dạ! Ông ơi! Doanh trại của coong bị tấn công, lính bỏ chạy hết. Coong chạy về khu gia binh tìm vợ, vợ coong mới sinh được hai ngày, nó bỏ chạy và để lại đứa coong của coong còn nằm trong nôi. Coong đành phải bế theo. Thôi thì nó chết ở đâu, coong chôn ở đấy!”

Thằng bé này sắp chết đói đến nơi rồi. Tôi thực sự xa xót: “Anh ngồi yên đấy chờ tôi!”

Tôi lao nhanh về hầm chỉ huy, lục hết tất cả các ba lô, moi ra được ba hộp sữa đặc. Tôi bỏ tất cả vào túi vải, kèm theo một bình tông nước và chạy trở lại chỗ cha con người lính. Tôi đưa tất cho anh ta cùng một con dao chuyên mở đồ hộp.

“Anh đục sữa ra cho cháu ăn ngay. Nhớ là pha loãng ra, thấm sữa vào vải sạch, đặt gần miệng cho cháu tém dần dần. Cho ăn nhiều một lúc là nó chết đấy!” Tôi đưa cho anh ta một xếp băng gạc. “Anh lau máu ở vành tai và cổ đi, để thế nhìn rất sợ! Tai anh làm sao vậy?” “Dạ! Coong bị một viên đạn lạc xuyên qua. May quá! Chỉ lệnh một đốt ngón tay là coong chết, để lại đứa coong của coong.”

“Thế là may cho anh rồi! Bây giờ anh cho cháu ăn xong thì đi theo hướng này!” Tôi viết mấy chữ, kí tên, xác nhận anh ta là hàng binh rồi chỉ tay theo hướng ngược lại. “Có thể sẽ gặp được tổ y tế tiền phương của chúng tôi, họ sẽ giúp đỡ vì anh có cháu nhỏ. Anh cứ yên tâm. Họ không làm hại bố con nhà anh đâu!”

Tôi vừa bước đi được vài bước thì nghe tiếng gọi của anh ta: “Ông giải phóng! Ông cho coong gặp tí xíu.” Tôi bước quay lại, tưởng là anh ta lại nhờ giúp đỡ thêm gì, nhưng không. Anh ta lấy từ trong cái làn nhựa có đứa bé đang thoi thóp, dí vào tay tôi một gói vải nhỏ: “Ông giải phóng cầm giúp hộ coong cái này! Coong sợ ra ngoài kia, bọn chúng lục tìm lấy mất.”

Tôi cầm cái túi vải, lấy tay nắn, thấy có mấy vật gì đó tròn tròn, cưng cứng. “Tôi chỉ giữ giúp anh thôi nhé!” Anh ta gật đầu, rồi hai tay ôm lấy cái làn nhựa vừa bước đi, vừa ngoái lại nhìn tôi vẻ như tin tưởng, gửi gắm. Tôi nhìn theo, chắc là anh ta tìm một chỗ khuất nào đó để cho thằng bé con ăn sữa. Tôi phân vân, có nên giữ cho anh ta không nhỉ? Chắc chắn phải là vật rất có giá trị, nên anh ta mới gửi gắm. Bởi vì ra ngoài đường kia, gặp đám loạn quân, tránh sao khỏi việc cướp bóc giữa những kẻ cùng đường?

Khi cha con nhà anh ta đi khuất, tôi mới mở cái túi vải ra xem là vật gì, thì thấy một vòng đeo cổ màu vàng, hai vòng khuyên nhỏ cũng màu vàng, có đính hai viên đá phát sáng lấp lánh. Chắc là vàng và kim cương? Ngày ấy chúng tôi vốn lính nhà quê nghèo, có bao giờ tiếp cận với vàng bạc, đá quý đâu mà biết...

Chiến tranh kết thúc, tôi giải ngũ về quê. Ba hiện vật mà người lính Việt Nam Cộng hòa ở phía bên kia chiến tuyến trao ngày ấy, tôi vẫn giữ đến bây giờ. Tôi chắc là người lính ấy vẫn còn sống, vì đã may mắn là tù hàng binh ngay từ đầu chiến dịch. Tiếc là khi ấy, anh ta không nói rõ và tôi cũng không kịp hỏi họ tên và quê quán, để sau chiến tranh, có thể liên lạc với nhau và trả lại hai vật ấy cho chủ nhân của nó.

Gần nửa thế kỉ trôi qua, tôi vẫn cất giữ hai kỉ vật ấy, không nói cho bất cứ ai và cũng không đưa đi giám định xem nó là vật gì? Đó là tài sản của người khác kí thác, không phải của tôi, tôi không có quyền sử dụng, cho dù người ta còn sống hay đã chết. Nếu họ chết rồi, thì tôi vẫn gìn giữ như là một kỉ niệm của tình người, của hai người lính hai bên chiến tuyến trong cuộc chiến khốc liệt một thời…

*

Có thể là người lính từ ngày ấy chăng? Tôi nhìn từ phía sau, khuôn mặt gầy, hai má hóp, vẻ thật thà ngay thẳng. Sau ngày thống nhất, có nhiều chuyến đi công tác, tôi càng nhận ra những người đồng bào của mình vùng Nam Bộ, họ sống thật chân tình, hiền hậu, đôi khi, tất cả vì bạn bè.

Tim tôi phập phồng. Nếu đúng là người lính Việt Nam Cộng hoà ngày ấy thì tôi tin là con người ta có số. Tôi nghĩ đến ba vật bằng vàng mà anh ta đã tin tưởng gửi cho tôi giữ giúp, bây giờ tôi vẫn giữ vẹn nguyên trong chiếc rương gỗ. Nếu đúng là anh ta, ba vật này là một tài sản lớn, có thể giúp cho anh ta thoát khỏi khó khăn. Vì tầm tuổi này còn phải chạy xe ôm, chắc chắn gia cảnh chả lấy gì làm sung túc.

Xe đã đến cổng nhà sáng tác. Tôi bảo anh ta: “Này anh! Chả mấy khi cùng đi chung một đoạn đường. Mời anh vào quán cà phê, cùng tôi uống với nhau một ly”.

“Dạ! Coong cám ơn ông!”

Tôi chọn một ghế ở góc khuất để hai người có thể tâm sự riêng mà không ai để ý. Trong khi chờ chủ quán mang café đến, tôi lặng lẽ ngắm nhìn khuôn mặt của anh ta. Vẫn khuôn mặt gầy quắt, nước da màu nâu sạm, hai vành tai khá to, trán cao, sáng, hai môi dày đều, một khuôn mặt nhân hậu. Bây giờ là lúc tôi cần phải hỏi để xác minh một sự thật, có đúng là người lính phía bên kia đã gặp tôi trong một khoảng không gian khốc liệt ngày ấy không? Còn một chi tiết nữa là đứa con trai mới sinh được hai ngày đựng trong chiếc làn nhựa, nếu tất cả đều đúng, thì anh ta chính là người lính tôi đã gặp trong rừng Cheo Reo Phú Bổn ngày ấy. Chủ quán đã mang café đến và đặt trước mặt hai người. Tôi lặng lẽ, trầm lặng suy tưởng, tâm trạng tôi như đang quay ngược những thước phim về miền dĩ vãng.

“Này, ông bạn xe ôm! Ông đừng xưng coong với tôi nữa. Tôi cũng chỉ ngang hoặc hơn anh vài tuổi thôi. Bây giờ anh có thể cho tôi biết anh bị viên đạn lạc xuyên qua vành tai trong trường hợp nào vậy.”

Anh ta cười rất vô tư, nói với tôi như nhắc lại một kỉ niệm.

“Dạ! Thưa ông! Ngày ấy xa lắm rồi! Coong bị một viên đạn lạc xuyên qua vành tai khi đang lẩn trốn trong rừng Cheo Reo Phú Bổn. Đơn vị coong bị quân giải phóng tấn công, chạy tan tác. Khi đó coong đang bế theo đứa coong của coong.” Tôi hỏi, giọng có chút gấp gáp.

“Thế đứa con trai anh bế theo ngày ấy bây giờ thế nào rồi?”

“Dạ! Đứa coong của coong ngày ấy má nó bỏ lại mới có hai tuổi, sắp chết vì khát sữa, may nhờ có một ông bộ đội giải phóng phát hiện khi con cùng hai người nữa đang lẩn trốn trong rừng, đã không bắn chết, lại cho coong đường sữa nên nó đã vượt qua và vẫn còn sống đến bây giờ. Nhờ phúc đức của tổ tiên mà bố coong coong gặp được ông bộ đội nhân đức ngày ấy.”

Tim tôi đập thình thịch. Thế là rõ rồi! Đúng chính xác là anh ta - Tôi tự khẳng định.

Tôi ngồi lặng đi một lúc. Trời ơi, đúng là anh ta rồi! Tôi biết chắc chắn anh ta không thể hình dung ra là người lính bên kia chiến tuyến ngày ấy, đã cho bố con anh ta đường sữa, người ra lệnh không được bắn chết đối phương khi họ thua trận, tháo chạy, giờ đang ngồi trước mặt. Vị trí của tôi bây giờ là người cha con anh ta phải mang ơn. Nhưng tôi không nghĩ đến điều đó. Tôi chỉ thấy thực sự vui mừng và hạnh phúc khi gặp lại người lính ngụy sau gần nửa thế kỉ và có cơ hội trả lại cho anh ta món đồ quý giá mà cha con anh ta đã tin tưởng trao gửi.

“Này ông bạn!” Tôi nói giọng rất thân tình để anh ta không cảm thấy đột ngột và cách biệt. “Thật đúng là duyên trời! Bởi vì ngay từ lúc ngồi sau tay lái của anh, nhìn tận mắt vết thủng trên vành tai, tôi đã thoáng chút nghi ngờ. Tôi chính là người lính giải phóng đã gặp cha con anh ngày ấy ở rừng già Cheo Reo Phú Bổn đây! Một bên vành tai của anh ngày ấy bị viên đạn lạc xuyên qua, máu chảy thành vệt xuống cổ. Tôi đã cho anh một xấp băng gạc để lau đi. May quá! Những đồ vật bằng vàng, có đính hạt kim cương anh gửi, giờ tôi vẫn giữ nguyên vẹn. Tôi sẽ trả lại cho cha con anh vào một ngày gần nhất.”

Nghe được câu nói của tôi, anh ta đứng phắt dậy, cốc café đang cầm trên tay rớt xuống vỡ choang trên nền gạch.

“Trời ơi! Thì ra ông là ông giải phóng ngày ấy sao? Bao nhiêu năm nay, ba coong coong vẫn nhắc đến ông. Sao trên đời này vẫn có những người nhân đức như thế. Ông ơi! Hôm nay coong mời ông đến nhà coong, gặp lại đứa coong của coong ngày ấy. Không gặp được ông ngày ấy, làm gì nó còn sống ở trên đời cho đến bây giờ?” Anh ta cứ ôm lấy tôi khóc hu hu như một đứa trẻ…

Ba ngày sau, vào một buổi chiều, anh ta đã đến tận nhà sáng tác đưa tôi đến thăm nhà. Một ngôi nhà nhỏ nằm lút trong ngõ hẻm trên đường Phan Đình Phùng thuộc quận Hải Châu. Thằng con trai đỏ hỏn ngày ấy bây giờ đã gần năm chục tuổi, cùng với vợ làm công nhân ở một xưởng gỗ gần ngay nhà. Cả ba cha con và hai cháu cùng ở chung với nhau, nghe anh ta giới thiệu, vợ chồng chúng đều mừng vui tíu tít…

Trở lại nhà sáng tác, tôi cắm cúi ghi lại phần đầu câu chuyện có thật và cái kết thật có hậu. Còn phần kết, phải đợi khi tôi đưa anh ta ra Bắc và trao lại những đồ vật anh ta đã gửi thì câu chuyện mới kết thúc được. Người lính ngụy ngày ấy, gần 50 năm sau tôi mới biết tên. Tên anh ta là Tâm. Huỳnh Văn Tâm và đứa con trai ngày ấy, cha nó đặt là Bắc. Huỳnh Thế Bắc. Ý cha nó muốn gửi gắm, là nhờ có người lính Bắc việt nhân hậu ngày ấy mà nó vượt qua cái chết đến rất gần và được sống trên đời…

*

Khi tôi mở cánh cổng sắt, Tâm bước vào nhà, nhìn thấy cảnh vắng lặng, anh ta có vẻ ngạc nhiên. Tôi tạm giải thích rằng, ngày giải ngũ trở về, bố tôi đã mất, chỉ còn mẹ và một người chị gái lấy chồng ở làng bên. Sau khi mẹ mất, tôi vẫn ở độc thân cho mãi đến bây giờ.

Việc đầu tiên cũng là việc quan trọng nhất, tôi vào buồng bê cái rương gỗ ra, mở khóa, lấy ra gói vải nhỏ. Gói vải còn y nguyên như cái ngày Tâm gửi cho tôi trong rừng già Cheo Reo ngày ấy.

“Chú xem đi! Tôi vẫn giữ nguyên như lúc chú gửi.” Vừa nói, tôi vừa giở ra. Hai chiếc bông tai có đính mỗi bông một hạt kim cương, trong ánh sáng từ ngoài sân chiếu vào, phát ra những tia sáng lấp lánh, một vòng đeo cổ tay bằng vàng. Nhìn thấy ba vật ấy, Tâm khóc nức lên.

“Anh ơi! Khi vợ em bỏ coong chạy trốn, chắc cổ gỡ hết đồ trang sức trên người bỏ lại, ý là nhờ em bán đi mà nuôi coong cho cổ. Mấy chục năm trời, em cũng không nhận được một dòng tin tức của cổ. Có khi cổ đã chết trong đám loạn quân rồi.”

“Chú Tâm! Tôi đã hoàn thành trách nhiệm của mình. Giờ thì tôi giao lại cho chủ nhân của nó.”

“Anh Đức! Những vật này trước kia là của em, giờ thì em trao lại cho anh. Anh nhận lấy đi, coi như ba coon em, trả ơn anh đã cứu mạng. Đây là tấm lòng của ba coong em!”

Tôi nhìn anh ta, mỉm cười, nụ cười của một người đã giữ được chữ tín suốt gần nửa thế kỉ trôi qua.

“Chú Tâm! Chú coi tôi là hạng người nào? Nếu tôi tham lòng, chắc đã bán đi rồi! Chú còn người con trai, con dâu và hai cháu. Chú cần nó để chi tiêu và trang trải nhiều khoản cần thiết. Còn tôi, chú thấy đấy! Tôi chỉ có một mình, có lương thương binh, tiêu còn chưa hết. Tôi còn cần chi đến những đồ đắt tiền ấy?”

Tâm yên lặng ngước nhìn tôi. “Anh cứ cất tạm vào hòm đã. Hôm nào về, anh em ta sẽ tính nên như thế nào.”

Đêm ấy, hai anh em cùng nằm một giường. Tâm thao thức không ngủ. Chợt anh ta xoay người, vòng tay ôm lấy tôi.

“Anh Đức! Cho em hỏi anh một câu.”

“Có chuyện gì vậy? Chú cứ hỏi đi!”

“Sao anh không lấy vợ?”

Tôi gỡ tay Tâm ra, ngồi dậy, bật điện, đi lại phía bàn thờ, quờ tay lấy chai rượu đã thắp hương rót vào hai chiếc ly nhỏ.

“Chú đã ra đến đây, đó là một sự kì diệu, có sự sắp xếp của chúa trời. Chú dậy đi, cùng nâng với tôi một chén rồi tôi kể cho mà nghe.”

Tâm nâng chén, uống cạn, mắt cứ chăm chăm nhìn tôi. Anh ta biết, chắc chắn có một lí do rất hệ trọng nên tôi mới sống độc thân từ khi giải ngũ cho đến giờ.

Tôi hít một hơi dài, để tâm trí thật thả lỏng, cho câu chuyện sắp nói với một người anh em ở bên kia chiến tuyến ngày ấy không cảm thấy nặng nề.

“Chú Tâm! Cám ơn chú đã quan tâm đến tôi. Sau cái lần gặp ba con chú trong rừng Cheo Reo Phú Bổn, sau đó sư đoàn tôi di chuyển về đồng bằng. Trong trận chiến cuối cùng giải phóng Sài Gòn, tôi bị một quả đạn cối bắn từ phía trước mặt. Sức ép của quả đạn, bốc cả người tôi lên. Một mảnh đạn cối cay nghiệt, đã cắt phăng cái bộ phận ấy của tôi. Tôi nằm bất động, máu me đầy mình, may mà đội phẫu tiền phương có mặt kịp thời, nên tôi mới được cứu sống. Số trời, còn may là toàn bộ cơ thể không hề gì, chỉ có bộ phận ấy biến mất. Chú bảo, không còn cái ấy, lấy vợ để nhìn ngắm thôi sao? Cuộc chiến đã qua, chú may mắn hơn tôi, chỉ bị một viên đạn lạc xuyên qua vành tai, còn tôi, thì mất trắng cả một đời trai tráng...”

Hôm chia tay, Tâm chỉ nhận đôi bông tai có đính hạt kim cương, còn chiếc vòng đeo cổ tay bằng vàng, anh ta kiên quyết không nhận.

“Anh Đức! Thật là duyên trời mà anh em ta còn gặp lại nhau. Những thứ em gửi anh, giờ đây, không còn tính giá trị bằng tiền nữa, nó là một cái gì đó, thiêng liêng, cao cả mà anh em mình phải gìn giữ. Em chỉ nhận đôi bông tai, em sẽ trao cho cô con dâu của em. Còn chiếc vòng đeo tay, anh giữ lấy làm kỉ niệm. Anh phải nhận, đừng để em phải thất vọng, bởi sau bao nhiêu năm trời, ba coong em luôn mong nhớ và nghĩ tốt về anh.”

Cuối cùng, tôi đành phải chấp nhận, nhận cái vòng đeo cổ tay bằng vàng ấy cho Tâm vui lòng. Nhưng tôi nghĩ, sẽ trả lại cho gia đình Tâm, nhân một dịp nào đó vì bây giờ, anh em đã biết nhà nhau và các phương tiện giao thông, thông tin đã kết nối giữa hai miền Nam Bắc.

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ
Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Baovannghe.vn - Ngày 4/12, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công bố 72 thành phố của 46 quốc gia, trong đó có Thủ đô Hà Nội của Việt Nam được công nhận là thành viên Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu của UNESCO.
Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Baovannghe.vn - Trong phiên làm việc ngày 4/12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi).
Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Baovannnghe.vn - Giọng đọc và hậu kỳ: Hà Phương; Đồ họa: Thùy Dương; Biên tập: Phạm Thị Hà
Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn