Với Vùng sương phủ, hầm sâu và đảo vắng, tác giả Hồ Tấn Vũ không làm tôi thất vọng. Cuốn sách như đưa tôi lên chuyến xe nhồi chặt, sực nức mùi mồ hôi cùng tiếng chửi thề, đi con đường xóc nảy qua làng Hạ núi Chúa, ngầm Nước Chè, đến với bãi Ma, đồi Eo Chim… Ở nơi rừng xanh núi đỏ ấy có cộng đồng người tứ xứ Bắc Nam tụ đến với nhau, họ mơ ước làm giàu, đổi đời nhờ các mạch vàng trong lòng đất, và quan trọng nhất: trốn tránh quá khứ. Ừ, bởi quá khứ thì luôn luôn nhiều dằn vặt, day dứt, lẫn giá như. Nhưng rốt lại con người chẳng trốn tránh quá khứ mãi được, cũng chẳng thể chết đi để làm một vấn đề triết học thực sự nghiêm túc như triết gia người Pháp nào đó đã nói, rồi cũng có lúc phải đối diện trực tiếp với quá khứ, đấu tay đôi một một…
|
Làng Hạ là nơi nhân vật chính trong truyện - Tấn chào đời, lớn lên. Cái làng mà chẳng ai thống kê được có bao nhiêu người chết vì rượu. Cái làng có một ngọn núi mà khi nhắc đến ai cũng sợ là núi Chúa. Dưới chân núi là dòng sông Thu mỏng manh uốn lượn, nước từ sông đổ vào cánh đồng Chuông, nhưng thường chẳng bao giờ đủ nên cánh đồng quanh năm khô hạn, và người nông dân thường trong tâm trạng chưa ăn bữa nay đã phải lo đến bữa mai.
Tấn sinh ra trong khốn khó, từ bé đã lăn lộn, mò mẫm nơi đồng ruộng, lên đồi lên núi, xuống sông để mong kiếm thêm được chút gì đó bỏ vào miệng, cũng như thêm được chút món mặn trong bữa ăn gia đình. Trong một lần đi bắn chim bằng ná cao su, chẳng biết Tấn có bắn trúng con chim chào mào trong bụi cây không - nhưng sau cú bắn đó, đồng thời ông Liên say rượu ngã ập mặt xuống ruộng ngập bùn mà chết, tiếng hét cứu người vang trên cánh đồng. Tấn sống trong canh cánh sợ hãi, day dứt, về sự không dám chắc mình có phải là thủ phạm hay không.
Cú bắn vu vơ hôm nào đi theo Tấn, mở đầu cho cuốn tiểu thuyết, nơi cái chết ám ảnh tù túng bao vây qua hơn 400 trang sách. Nơi con người để sống đã phải chịu đủ thứ khổ sở, từ cái ăn cái mặc, dị nghị hàng xóm, đến sự bất lực trước đời sống, muốn tốt đấy mà chẳng thể tốt. Phần I kết thúc khi Hiệp, người anh thân thiết của Tấn bỏ làng đi sau khi tự tử không thành. Tấn học hết lớp mười hai, dù thi đỗ đại học nhưng không có tiền để học. Phải lựa chọn theo chú Hai, người chú cùng làng đi đào vàng, mong muốn có tiền lo cho ngày tháng học hành sau này của mình.
Tấn đi, bỏ lại quá khứ nơi làng Hạ nghèo khó. Nơi có đám thanh niên chán đời lẫn bất cần đào chó chết lên mổ ăn. Nơi có bố mẹ, các em ngày ngày vẫn bằng lòng sống với hiện tại, đôi khi nhớ về quá khứ thời chiến tranh – nhưng cũng chỉ nghĩ đến cái khổ thôi, bởi cái khổ thường dễ nhớ dễ cảm, hay đúng hơn cái xóm Hạ nơi chân núi Chúa ấy từ trước đến nay đã có ngày nào sướng đâu: bởi thiên nhiên chẳng ưu đãi con người, chiến tranh giành giật liên miên, đến con người vì nghèo túng quá đối xử ác với nhau mà chẳng biết…
Hai chú cháu Tấn tìm đến bãi vàng, trước khi vào bãi vàng, nghỉ đêm ở thị trấn và máu Tấn đã đổ bởi những người duy trì an ninh ở đây. Tấn không biết tại sao mình bị đánh đổ máu, cú sốc đầu đời của chàng trai mười tám tuổi vừa bước ra khỏi không gian làng quê của mình. Tấn vào làm ở bãi Ma, công việc là xuống hầm đào đá mang lên, rồi nghiền ra đãi vàng. Bãi Ma đây là nghĩa địa của người Giẻ Triêng, tộc người có phong tục người chết được chia tài sản như người sống, từ quần áo giày dép, chăn chiếu đến công cụ lao động như cuốc xẻng, dao rựa… Khi đưa quan tài người chết lên bãi Ma xong là người sống bỏ chạy không quay nhìn lại, bởi sợ nếu nhìn con ma sẽ bám theo về nhà. Bãi Ma thành nơi sợ hãi với tộc người thiểu số, nhưng người Kinh thì không. Ông Tám, ông Ngạn những người trùm bãi đã nhìn ra nguồn lợi lớn dưới lòng đất, họ tìm người đào hầm từ đồi Chanh bên cạnh thông sang đồi Ma, đào dọc các khe, cắt qua khu nghĩa địa.
Nhóm của Tấn đặt dưới sự chỉ huy của ông Ngạn. Gia đình ông Ngạn ở dưới thị trấn, có vợ tên Phượng cùng con gái vẫn thường gọi là bé Mèo. Cùng tuổi với Tấn ở trong nhóm khai thác có Bình và Vinh. Nhiều tuổi hơn có chú Mười, chú Tám. Hai người đàn bà thường lùa bầy heo bán qua các lán là chị Thắm và Duyên. Cả nhóm khai thác đã chết khi đất đá trên đồi Ma ụp xuống, lấp trả lại phần đất đá đã bị con người moi lên vào ngày giáp Tết. Tấn may mắn thoát khỏi cơn giận dữ của đất mẹ khi về lán ngủ sớm. Tấn cũng đã cố bới được Bình bị thương tìm đường về thị trấn, nhưng khi qua cầu treo cả hai người rơi xuống và Bình đã chết.
Tấn còn sống với vết thương trên thân thể (sẽ lành), cùng vết thương trong tâm hồn chẳng bao giờ lành. Chú Mười, chú Tám, Bình, Vinh, chị Duyên nữa, họ đều là người tốt, vì cuộc sống mà phải lang bạt đến đây. Dù ở nơi con người ứng xử với nhau bằng luật rừng, bằng đâm chém (như ở đồi Eo Chim: khi Tiến đen trả thù ông Cường bằng cách cho nổ cả kho thuốc nổ hóa vàng tất cả; hay cả đám sẵn sàng giết người nợ bạc bỏ trốn bằng cách đem xuống hầm vàng đánh ngất, rồi dùng thuốc nổ đánh sập lối ra) ở nhóm của Tấn tất cả vẫn giữ được trong mình cái phần thiện lương vốn có, họ yêu thương đùm bọc, che chở cho nhau; chia sẻ, lo lắng về cuộc sống của nhau sau này. Ai cũng biết bãi vàng là tạm bợ, nhưng sự gắn bó giữa con người với con người là thật.
Tấn ra viện, trong lúc chờ đợi đi học quyết định đi tìm anh Hiệp. Tấn xuống Quy Hòa vào nhà thờ tìm anh không được, ở đây vô tình Tấn quen người đàn ông tên Minh Nhân, người cùng làng Hạ, từng là kĩ sư xây dựng trước 1975 nhưng vì bị phong cùi cũng bỏ làng mà đi biệt xứ. Bao năm qua ông sống thui thủi trong làng hủi, không vợ con, cũng không dám bước chân về làng, vì sợ sự không nguyên vẹn của mình trong mắt mọi người, khi các ngón tay đã rụng hết…
Sau đó nữa thì Tấn đi học đại học, ra trường đi làm, danh vọng lẫn tài chính lần lượt đến. Nhưng thẳm sâu trong Tấn vẫn không yên với phần quá khứ đã qua. Người vợ giỏi giang cùng hai đứa con cả trai lẫn gái xinh đẹp không níu được Tấn an bài, hài lòng với những gì đã có. Tấn muốn dấn mình vào nguy hiểm, thèm cái cảm giác tức thở dưới hầm vàng ngày nào. Anh dấn vào cuộc truy lùng quá khứ, tìm thấy bé Mèo ở nước Nhật xa xôi, rồi vụt mất cô khi phải lựa chọn cô hay gia đình, vợ con ở Việt Nam. Cuối cùng, sau khi nếm trải tất cả, Tấn tự thiêu bằng rượu whiskey trên đồi Chè nơi làng Hạ, lửa bốc lên xanh ngắt, thơm nồng, đóng lại một kiếp người.
Với tác giả Hồ Tấn Vũ, một nhà báo (Trưởng Văn phòng đại diện Báo Tuổi trẻ khu vực Trung Trung Bộ) qua cuốn tiểu thuyết đầu tay Vùng sương phủ, hầm sâu và đảo vắng tôi chỉ tiếc một điều giá anh dừng lại sớm hơn; chẳng hạn ở ngay quãng Tấn đi thăm ông Minh Nhân gặp các sơ biết ông đã mất, hoặc đoạn Tấn học xong đại học về làng Hạ thấy ngôi làng đã thay đổi nhiều và giờ bắt đầu dấn thân vào đời sống nhộn nhạo của phố phường thì tốt. Bởi đơn giản, sau hai phần, đặc biệt phần II: Vũ điệu dưới hầm sâu với gần 250 trang in đặc quánh về đào vàng, sang đến phần III: Quần đảo lạc loài người đọc cần một sự bùng nổ hơn nữa, hoặc ít nhất cũng là một kết thúc để cho họ tiếc nuối hơn mỗi khi nghĩ về nhân vật Tấn.