Chuyên đề

"Lạ hóa", một yếu tố thành công trong tiểu thuyết Đoàn Hữu Nam

Cao Thị Hảo - Ngô Quốc Tuấn
Tư liệu
17:00 | 04/02/2025
Baovannghe.vn - Một nhà nghiên cứu đã có lý khi cho rằng “cái làm nên nét riêng cho cuốn sách của Đoàn Hữu Nam, trong cái mênh mông của văn xuôi miền núi, cách mạng xưa nay, là anh đã chú ý làm lạ hoá thế giới nghệ thuật của mình bằng những chi tiết, hình ảnh kì lạ, có lúc hoang đường".
aa

Trong văn học về đề tài miền núi, Đoàn Hữu Nam là một cái tên khá mới. Ông có duyên với văn chương bắt đầu từ thơ, truyện ngắn, nhưng thành công hơn cả là tiểu thuyết. Tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam phản ánh phong phú hiện thực miền núi những năm sục sôi cách mạng giành chính quyền và tiễu phỉ, với nhiều biến cố lịch sử gắn liền với đời sống của cộng đồng các dân tộc Hmông, Dao, Giáy... ở các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta, đặc biệt là Lào Cai. Có thể kể những tác phẩm tiêu biểu của Đoàn Hữu Nam như: Tình rừng, Trên đỉnh đèo giông bão và đặc biệt là Thổ phỉ, tiểu thuyết được giải A của Hội văn học - nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam năm 2010.

Trong các tiểu thuyết của mình, Đoàn Hữu Nam mô tả những phong tục tập quán của người miền núi, đưa truyền thuyết dân gian vào để tô đậm thêm màu sắc dân tộc. Đặc biệt, yếu tố kì ảo được sử dụng rất thành công trong các tác phẩm, góp phần quan trọng thể hiện rõ ý đồ nghệ thuật của nhà văn.

Yếu tố kì ảo (fantasticque) xuất hiện trong sáng tác văn chương như là một thủ pháp nghệ thuật, có tác dụng lớn trong việc “lạ hóa” thế giới hình tượng của tác phẩm. Trong tiểu thuyết của Đoàn Hữu Nam, khi xây dựng nhân vật phản diện, nhà văn đặc biệt chú ý miêu tả sự ra đời rất kì lạ của nhân vật. Đó là các nhân vật: Chẩu Po, Triệu Tá Sắn trong Thổ phỉ hay Lù Tà trong tiểu thuyết Trên đỉnh đèo giông bão...

Không giống như bao người đủ chín tháng mười ngày thì chào đời, Chẩu Po (Thổ phỉ) gan lì đợi đến lúc năm mới năm cũ giao nhau – khi mà những người thân đứng ngồi không yên - mới chui ra từ bụng mẹ. Chẩu Po vừa ra đời đã toét miệng cười, “nụ cười khinh mạn của đứa trẻ sinh ra một cách không bình thường, trong ngày giờ không bình thường”. Sự ra đời khác thường cho thấy Chẩu Po khác hẳn với những đứa trẻ khác. Hắn có cái nanh nọc lõi đời của một con thú tinh khôn.

Sự ra đời của Triệu Tá Sắn (Thổ phỉ) cũng kì dị: “Ngày Sắn sắp chào đời thì mẹ Sắn vô tình chui qua rừng ma. Hàng trăm con ma đói khát vây quanh đùa bỡn, một tốp thợ săn phát hiện ra đưa về nhà châu đoàn thì bà đang ngấp nghé ở cửa ngục”. Để thoát khỏi địa ngục của ma quỷ, người mẹ ấy đã gắng gỏi sức tàn lê thân đến vương quốc của hổ để gửi lại đứa con cho đời. Sắn đã được sinh ra “trong vương quốc của hổ, được hổ cứu sống cho bú mớm nên pha trộn dòng máu của nó là dòng máu hổ. Và dòng máu đó khiến hắn mang bản năng của loài mãnh thú, không chỉ quần hôn với sáu người đàn bà như “đàn hổ trong mùa giao phối mà còn “luôn thèm thịt sống, nhất là loài ăn thịt hai chân biết nói, biết nghĩ”.

Yếu tố kì ảo có sức ám ảnh sâu đậm phải kể đến hiện tượng đầu thai của Lù Tà (Trên đỉnh đèo giông bão). Sự ra đời của Lù Tà như một minh chứng của luật nhân quả. “Nó ở lỳ trong bụng mẹ chín, mười rồi ngoài mười tháng” và “đúng lúc lưỡi tầm sét loằng ngoằng, sáng chói bập xuống cây chò chỉ đứng đầu bản thì mẹ nó giật mình và bật ra nó". Vừa ra đời, nó đã thấy thế giới này hết sức quen thuộc. Rồi vừa biết nói nó đã “bi bô kể cho mọi người chuyện người đẻ ra nó là ai! Nhà nó ở đâu! Bố nó thế nào! Nó đã phải giã từ kiếp trước ra sao”. Kiếp trước của hắn bắt đầu từ một cuộc hôn nhân bất bình thường giữa một người đàn bà ngủ ngáy và ông chồng nghiện rượu. Lão Vắn vì nghiện rượu đã vô tình giết chết đứa con để rồi sống trong những ám ảnh ghê rợn, khi “đêm đêm hồn của nó vẫn quẩn quanh. Nó có mặt khắp nơi, lúc chui sâu vào giấc ngủ của lão, lúc chập chờn trong ánh nắng, lúc in hình trên bức tường loang lổ...". Rồi những đêm trăng suông “hình bóng thằng con lúc ẩn lúc hiện, tiếng cười vô tư của nó cứ vỡ ra trong tiếng lật phật của những tàu chuối rách tướp, trong tiếng gió u u luồn qua vách lưới đầu hồi"... chờn vờn chờn vờn rồi mất hút khi “đám mây đen lướt tới, cái vực nở ra thành cái huyệt đen ngòm". Đau khổ, ân hận khiến cho người đàn ông khốn khổ đó dang tay đón Lù Tà về nuôi khi cha mẹ nó bị chết trong một trận mưa bão. Sự dị kì về hình dáng của thằng Lù như mối nợ tiền kiếp cứ bám riết lấy cuộc đời của lão Vắn. Tưởng rằng trời ban ơn mang đến cho lão thằng bé để chuộc lại những lỗi lầm xa xưa, nhưng oan nghiệt thay, Lù Tà trở về từ kiếp trước để hành hạ người cha đã vô tình hại chết nó: “Thằng bé giống như con quỷ nhập tràng. Thân nó ngắn chủng nặng nề. Hai cẳng chân dài ngoẵng, gầy guộc như 2 cái tăm cắm vào củ khoai. Hai cẳng tay đầy lông lá dài chấm hai đầu gối, hệt như tay vượn. Khuôn mặt ngắn lông lá viền quanh minh chứng cho sự lai giống". Đặc biệt là khuôn mặt nó – khuôn mặt bị lão quăng cái chày vào làm cho méo mó, dị dạng - ám ảnh, day dứt, hành hạ lão cho tới tận lúc chết: “Hai cánh mũi trồi hếch lên như hai cái cửa hầm. Ngược lại cái sống mũi tẹt lõm hẳn xuống như bị ai đó giáng vào đó một chày. Những nhân vật này như những quái thai lai giống, loài mãnh thú đội lốt người. Chẩu Po thành một kẻ khát máu điên cuồng chống phá cách mạng; Triệu Tá Sắn với tham vọng cuồng tín được làm vua cai trị cả một vùng rừng núi; Lù Tà là tên tay sai giết người không ghê tay chỉ cần được thoả mãn bản năng nhục dục.

Ảnh minh họa. Nguồn pixabay

Kì ảo không chỉ là siêu nhiên, mà phải tạo được “hiệu ứng hoang mang" kinh ngạc. Việc miêu tả sự ra đời của những tên thổ phỉ khát máu, giết người không ghê tay như Lù Tà, Triệu Tá Sắn hay Chẩu Po đã đạt đến độ đó.

Addison cho rằng sáng tác theo xu hướng kì ảo là tạo ra một loại khoái cảm về nỗi sợ hãi trong tâm trí độc giả và làm thoả mãn trí tưởng tượng của độc giả bởi những cái lạ lùng và tính chất khác thường của những con người được miêu tả trong đó. Chúng nuôi dưỡng trong trí nhớ của chúng ta những câu chuyện mà chúng ta nghe từ thuở ấu thơ và thích thú với những nỗi khiếp sợ bí mật, những nỗi sợ hãi mà trí óc con người phải lệ thuộc vào nó một cách tự nhiên. Giấc mơ từ thời thơ ấu của Lay là một minh chứng như thế: "Lay thấy mình với Pò Quả, hai xác chết, một già, một trẻ bị một đám người trong bản háo hức mổ thịt, chia nhau. Hồn Lay theo tảng thịt về nhà một người nghiện rượu. Lão nghiện háo hức bỏ tảng thịt vào nồi nước sôi, mắt lão tròn lên, tảng thịt đỏ lòm nổi như cái phao, chạy xung quanh chảo đến rẽ nước. Lão vùng chạy, tảng thịt cũng nhảy ra khỏi chảo về nhà đập cửa gọi mẹ". Trong miền kí ức sâu thẳm của Lay, những hình ảnh của tộc người Giáy với tục lệ chia thịt người chết từ thuở hồng hoang vẫn còn ám ảnh day dứt, nặng nề.

Hình ảnh tờ giấy đe dọa của kẻ giết người gửi cho nhà họ Sần (Thổ phỉ) cháy rồi mà “tàn than còn nguyên hình dạng của nó bốc lên, xoáy tít, rồi đậu trùm lên bát nhang thờ tổ tiên trên bàn thờ, trông như một con bướm màu đen" như một tín hiệu dự báo về những điều chết chóc đen tối đang đến với dòng họ Sần. Hay những nén hương thắp cho linh hồn oan uổng của Sần Quang trước cái chết “bất đắc kì tử" không bắt lửa, nhưng sau lời khấn cầu của ông Sần Đạt đã “bén lửa cháy đùng đùng, ông phải vẩy mấy lần, những ngọn lửa mới chịu thu mình vào trong những tàn than đỏ như màu máu". Ngay cả cảnh Sần Đạt bất tỉnh nhân sự trước cái chết của thằng con trai cũng thật kì quái, hồn vía được miêu tả có hình có ảnh: “lơ lửng giữa chín tầng mây”, “bao quát vạn vật một cách nuối tiếc, rồi lặng lẽ chui vào cái hộp sọ đầy hang hốc”...

Yếu tố kì ảo còn được tác giả sử dụng thành công trong việc tạo ra một lớp màn linh thiêng bao trùm toàn bộ không gian trong tác phẩm. Nó phảng phất trong hình sông thế núi của những địa danh miền núi nơi đồng bào dân tộc thiểu số quần tụ. Suối Hoa được coi là vùng đất “địa lợi” - nơi hội tụ của khí thiêng trời đất. “Ở nơi này, trời đất đóng kín bằng vòng vây núi non, song lại mở ra cho nó một tiểu vũ trụ, một sự cân bằng như sắp đặt... Màu đất ở Suối Hoa cũng không giống những nơi khác mà “vàng tươi như ai đó lấy đỗ xanh xát vỏ, đồ thành xôi rồi rải ra khắp đổi khắp ruộng”. Rồi “Những phiến đá đen nhẵn lỳ như đá mài, được giời đất xếp chồng lên nhau, tạo thành những cái tháp kì vĩ, huyền bí.. hội tụ đủ cả âm dương ngũ hành". Ngay cả nguồn nước người dân Phòng Tô dùng để cúng trời đất tổ tiên cũng là nước thiêng được lấy từ “mỏ nước tận trên thượng nguồn, nơi ngọn núi chúa vồng ra như bộ ngực. Từ bộ ngực ấy hai dòng nước một nóng, một lạnh ngày đêm tuôn ra như hai dòng sữa. Nơi hai dòng sữa hợp nhau chính là mỏ nước thiêng của cả vùng"...

Đặc biệt là hình ảnh thiên nhiên, đất trời cũng được tác giả miêu tả với nhiều yếu tố kì ảo, khác lạ. Trong ngày lễ lên ngôi của vua Dao - Triệu Tá Sắn, sau khi hắn khấn xong thì: “Bầu trời vần vũ, từng đám mây đen ùn ùn kéo tới, phút chốc mặt trời chìm nghỉm trong cái ô mang màu chết chóc. Dưới đất rừng núi lặng phắc như trước đám tang, lam sơn chướng khí bốc lên ngùn ngụt khiến từng đàn chim lao ra khỏi tổ kêu inh ỏi, từng đàn khỉ, vượn lao ra khỏi hang ngửa mặt lên trời hú hét". Hiện tượng này như dự báo trước một hiểm hoạ bất thường sắp xảy ra. Đặc biệt là chi tiết tái hiện cảnh làm lễ lên ngôi: “Mở đầu của lễ, chậu nước rửa tay của thầy, của người thụ lễ biến thành chậu máu. Vào lễ, con gà sống sau khi cắt tiết đầu một nơi, thân một nẻo vẫn bay loạn xạ quanh hang"; Khi mổ bụng con dê làm lễ “quả mật to như quả gấc dính với lá gan, lá lách lằng nhằng"... Những chi tiết bất thường, lạ hoá này như là lời dự báo cho một tương lai đầy chết chóc đang đón đợi nhân vật ở phía trước.

Hiện tượng mưa, gió cũng được miêu tả lạ lùng, kì quái. Trong đám tang của Sần Quang, mưa gió thật rùng rợn: “phía núi Rồng nghe một tiếng ục âm âm, rồi tiếp theo là tiếng nước đổ, tiếng đá lở, cây gẫy át cả tiếng sấm chớp, mưa gió. Tiếng khóc hờn căm tức tưởi hoà với tiếng thét của trời đất đã kéo theo cả loạt tiếng khóc tiếp theo như dậy chuyền, khiến cho ai cũng có cảm tưởng như mình đang cùng trời đất xả hết nỗi thống khổ với thế gian". Mưa gió như điềm báo về sự bất bình của lòng trời và lòng người vậy!

Chi tiết về đàn kiến dưới sự nổi giận của vua kiến đã tạo ra hai cuộc thảm sát khiến người đọc không thể xác định được các sự kiện đang diễn ra trong thế giới thực hay siêu nhiên. Đoàn Hữu Nam đã miêu tả sinh động, chi tiết cái kết cục thảm khốc của cuộc tương tàn hổ - kiến trong tác phẩm của mình: “Sau một buổi đàn hổ không còn, những con vật biết cựa quậy không còn, rừng núi rã rời, tan hoang để rồi mãi mãi trở thành vùng đất chết". Cuộc nổi giận của vua kiến khi con người chiến tranh với nhau dẫn đến thảm cảnh: “Xác kiến, xác người, xác động vật, cây cối, phân gio bốc lên khét lẹt, gây như nướng cả rừng người. Cả hai bản bị xoá sổ từ vết máu đến ống xương mà vẫn chưa thoả mãn những hàm răng đói khát của những đàn kiến"...

Việc sử dụng yếu tố kì ảo đã mở ra những không gian nghệ thuật huyền ảo. Đây có thể coi là điều làm nên nét mới mẻ và độc đáo của nhà văn Lào Cai này đồng thời cũng là đóng góp riêng của tác giả Đoàn Hữu Nam cho văn học viết về dân tộc và miền núi đương đại.

Văn nghệ, số 31/2013
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải

Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải

Mùa xuân nho nhỏ là món quà cuối cùng và quý giá nhất mà nhà thơ dành tặng cho quê hương xứ Huế thương yêu của mình.
Qua đèo đá đẽo - Thơ Đoàn Xuân Hòa

Qua đèo đá đẽo - Thơ Đoàn Xuân Hòa

Baovannghe.vn- Những linh hồn lính nhớ nhà/ Đêm đêm lạc giữa nhập nhoà trăng non
Đi tìm hoàng hôn đã mất

Đi tìm hoàng hôn đã mất

Baovannghe.vn - Mỗi một chuyến đi ra khỏi những nơi đô hội, dù xa hay gần, không hề mang ý nghĩa một cuộc trốn tránh tìm lãng khuây, mà bao giờ cũng là một chuyến trở về, trở về giữa lòng thiên nhiên và trở về với chính mình. Đó là một cuộc hành trình ngược chiều, một hành động nhận diện những mất mát và băng bó những vết thương.
"Có còn làm thơ". Tản văn của Đào Đức Tuấn

"Có còn làm thơ". Tản văn của Đào Đức Tuấn

Baovannghe.vn - Ai dè càng thêm tuổi mới nhận ra càng sống càng thêm nhiều cái khổ cái lo. Vậy nên thằng nào cũng thích thơ và làm thơ, là chuyện dễ hiểu. Thơ giúp vui cuộc đời mà.
Văn chương về đề tài chiến tranh những bước tiến mới

Văn chương về đề tài chiến tranh những bước tiến mới

Baovannghe.vn - Với nhiều sáng tác văn xuôi về thời chiến, cũng như các tiểu thuyết đương thời, ít hư cấu hơn là tái dựng kể - tả, với một đề cương nội dung nhiều nhân vật