Sáng tác

Mẹ của người đàn ông. Truyện ngắn của Lauren Groff

Lauren Groff
Văn học nước ngoài 10:00 | 18/12/2025
Baovannghe.vn - Trong nhà tôi có đàn ông - quá nhiều đàn ông. Tôi muốn phát rồ vì những người đàn ông lúc nào cũng có mặt trong nhà mình.
aa

Lauren Groff (sinh ngày 23 tháng 7 năm 1978) là nhà văn Mỹ có sách bán chạy theo danh sách của tạp chí The New York Times.

Cô đã phát hành 5 tiểu thuyết, 2 tập truyện ngắn được giới phê bình đánh giá cao.

Có chồng tôi - người mà tôi chẳng thể oán trách, vì anh ấy được “đặc cách” rồi.

Còn 4 người đàn ông khác đang xây thêm phòng tắm nối với phòng ngủ ở tầng dưới: một gã người Ý lênh khênh đến từ New Jersey, lắm mồm khủng khiếp và xức nước hoa nồng đến nỗi mùi còn lừng trong phòng dù gã đã rời đi; còn có 3 người Venezuela trầm tĩnh, thường lẳng lặng sửa lại những gì gã New Jersey kia vừa làm trong lúc gã nghỉ tay. Cả ngày họ ra vào nhà tôi, giày ủng lạch xạch trên tấm bìa lót bảo vệ thảm. Họ đóng sầm cửa bếp, ngồi trên giường tôi để ngắm nghía “tác phẩm”, phủ lớp bụi trắng mịn kín khắp mọi bề mặt.

Mẹ của người đàn ông. Truyện ngắn của Lauren Groff
Minh họa Vũ Đình Tuấn

Đã 5 tháng trôi qua, nhưng phần xây thêm đó mãi chẳng thành hình - như vết thương hở, công trình phủ bạt ấy rỉ ra hơi lạnh, để lối cho mấy con gián Mỹ to đùng sáng bóng như khuy áo chạy tán loạn trong nhà. Có lần, nửa đêm tỉnh giấc vì tiếng động lạ, tôi hé mắt nhìn vào khoảng tối nơi công trình dang dở, thấy cái đầu nhọn nhọn, trắng bệch của một con chồn đang nhìn tôi chăm chăm từ cái lỗ vẫn còn thông ra bên ngoài - chỗ mà lẽ ra phải được nối với ống thoát nước bồn tắm.

Dĩ nhiên, đáng kinh ngạc nhất trong đám đàn ông trong nhà tôi, chính là các con trai tôi - chúng không còn mang dáng vẻ trẻ con nữa, mà đã thành những người đàn ông. Thằng út thì mảnh khảnh, nhưng cao vượt đầu tôi, thằng cả thì to lớn, cơ bắp, đến nỗi tôi thường tự hỏi chẳng biết nó có đi lọt cửa không - ấy thế mà nó vẫn đi lọt, theo kiểu món đồ chơi gỗ của trẻ con, dùng búa gõ các khối hình vào đúng lỗ tương ứng - nghĩa là, chỉ vừa khít, ấy là đứa - con - trai - hình - người - đàn - ông của tôi.

Tôi thường giật mình tỉnh dậy sau giấc mơ về hồi chúng còn bé, khi hai đứa còn thơm mùi xà phòng hữu cơ, bánh quy và trái kiwi, cả hai nép sát vào tôi - thằng út tóc xoăn vàng dưới cằm tôi, thằng lớn quấn chăn quanh hông, vòng tay quanh ngực, bám chặt như con gấu koala, nó đã mạnh mẽ ngay từ hồi ấy. Tôi mơ mình dạo bước trên bãi biển bình minh, hai đứa nhỏ bám chặt vào người tôi, và tôi cảm nhận luồng hạnh phúc tinh khiết nhất chảy ràn rạt trong huyết quản, khi những con sóng trong mơ vỗ nhẹ lên bờ cát.

Nhưng ngay trong cơn mơ hạnh phúc đó, tôi chợt tỉnh giữa chừng để đi vệ sinh, lảo đảo bước trong đêm tối đến nhà vệ sinh duy nhất còn dùng được, tôi bị nỗi kinh hãi siết chặt: một bóng đàn ông khổng lồ đang bước ra từ nhà tắm, tiến vào hành lang tối om. Nó đi sát tới tôi, đặt bàn bay to lớn lên đỉnh đầu tôi, vỗ khẽ, rồi nói nhỏ: “Mẹ ơi.”

Nỗi đau tràn đến tôi ngay lúc ấy, đột ngột và sắc nhói - hẳn tôi đã làm gì sai, hẳn tôi đã vụng về để xảy ra mất mát này, và tất cả thời gian xa hoa đã qua, những dải thời gian vô tận giữa những khoảnh khắc choáng ngợp và tiếng la hét mệt mỏi của tuổi thơ, bằng cách nào đó đã trôi tuột khỏi tay tôi; tất cả thời gian ấy đã biến mất, và chúng đi đâu rồi?

Mà dạo này tôi không còn tìm được lối thoát khỏi sự xâm lăng của đám đàn ông trong nhà bằng cách chạy ra ngoài nữa, vì có những người đàn ông khác, đàn ông ở xa, những kẻ ngày càng to béo nhờ thói tàn nhẫn của họ, đang làm bầu trời sụp xuống trên mái đầu; mỗi ngày bầu trời ấy tiến gần hơn chút, nặng nề, có chỗ thấp đến mức nuốt chửng người ta khỏi cuộc sống. Những buổi đi dạo dài hơi lúc chạng vạng cùng con chó không còn khiến tôi thanh thản nữa. Thực ra, còn khiến tôi kiệt quệ - không chỉ bởi bầu trời thấp đang ép sát xuống mái nhà và làm bầu không khí thêm quánh đặc, mà còn vì con chó đang mang theo trong khối bàng quang của nó tận hơn 2 lạng sỏi thận. Nó vẫn đang chờ bác sĩ thú y đi nghỉ mát về để lấy sỏi thận ra, và nó cứ đi được 3 bước đến 10 bước lại phải dừng để ngồi xổm mà chẳng tiểu được, đáng thương thay.

Cách đây một tuần, tôi với con chó lảo đảo bước trên đường rậm rạp gần Sweetwater Branch, chỗ tán lá dày tối thẫm trong màn hoàng hôn, bóng rợp lướt qua nào chim chóc, thằn lằn với sóc, nước suối tối róc rách sau cơn mưa chiều làm thanh mát cả thế giới và nhuộm góc chân trời thấp sang màu hồng tím. Ngay cả khi bầu trời đang muốn rơi trên đầu, trái đất này vẫn thơm thảo biết bao, tôi nghĩ vậy, khi nghe tiếng ve trên cây sồi và một con cú đang rúc khe khẽ gần đó, rồi tôi thấy mặt đất bốc hơi lên thành những bảng lảng tan biến. Xong rồi, tôi thấy ai đó tiến về phía tôi trong bóng chiều trên con đường phía trước - một người đàn ông gầy mặc áo trắng phát sáng - và nỗi khiếp đảm tràn vào tôi. Tôi nhận ra dáng người hắn, chuyển động cơ thể hắn, trước cả khi thấy mặt hắn.

Tôi lập tức đứng ra giữa đường, xa khỏi bụi rậm và con suối, và tôi đặt con chó ra giữa tôi với hắn, dù kể cả khi khỏe mạnh không mang tới 2 lạng sỏi trong bàng quang, con chó cũng chỉ là vệ sĩ vô dụng, vì nó sẽ quấn quýt bất kì kẻ tấn công nào. Tôi nắm chặt điện thoại trong tay và nghĩ: Đấm móc hàm, thúc gối vào hạ bộ, dùng ngón tay móc mắt hắn, bởi vì kẻ đang đến trước mắt tôi, cười nhe răng, chính là kẻ từng đeo bám tôi, kẻ đã khiến gia đình tôi chịu 10 năm khổ đau.

Hồi bắt đầu theo dõi tôi, hắn mới ngoài đôi mươi - hắn thuê trọ cách nhà tôi một góc phố - và chúng tôi hầu như chẳng liên quan gì hắn, ngoại trừ một lần, chồng tôi trên đường từ quán bia về nhà vào tối thứ Tư, thấy hắn nằm bất tỉnh trong bãi đỗ xe, bèn dìu hắn về cho tỉnh rượu trên chiếc xích đu ngoài hiên nhà mình. Cũng có lần khác, chúng tôi tổ chức ăn sáng Chủ nhật cùng vài người bạn trong khu phố, mà hắn ngang nhiên bước vào, ăn trứng với bánh muffin, dù chẳng ai mời cả.

Không lâu sau, qua xì xào từ mấy “bà tám” trong phố - một bà bán nước mỗi tối đều đi bộ khắp khu - tôi phong thanh được thông tin là gã đó bắt đầu kể với mọi người rằng hắn và tôi đang có mối quan hệ tình cảm. Chúng tôi thấy chuyện đó vừa lố bịch vừa kì quặc, nên bỏ qua, cho đến khi hắn bắt đầu dúi những lá thư điên loại vào hòm thư và chình ình giữa đêm, đứng ngoài cửa nhìn tôi đọc sách trên ghế sofa qua ô kính trên cánh cửa kiểu Hà Lan. Tôi ngẩng lên, thấy hắn đứng thù lù trên hiên, nhìn chằm chằm xuống tôi, và tôi đông cứng lại như con chuột trong góc lồng rắn. Cuối cùng, khi thế giới quanh tôi bắt đầu chuyển động lại, tôi lao đi đánh thức chồng dậy.

Không lời khuyên nào của chồng tôi - người có lòng kiên nhẫn vô tận - khiến hắn từ bỏ ảo tưởng; ngược lại, mọi thứ càng leo thang; hắn gửi yêu cầu chuyển 300.000 đô qua Venmo, cãi cọ nhặng xị với từng bài đăng trên mạng xã hội của tôi, xong rồi tôi còn thấy một con búp bê Barbie cháy sém đặt trước cửa nhà - có thể, hoặc không phải là “tác phẩm” của hắn. Hắn thường đứng bên kia đường, đối diện lối xe vào nhà tôi, khiến tôi phải chạy vội ra xe mỗi lần đi chơi tennis sáng sớm để tránh bị hắn hét gọi như một người tình bị ruồng bỏ - mà hắn chưa bao giờ là thế.

Chúng tôi báo cảnh sát khi hắn bắt đầu đi theo con trai út của tôi lên phố, nhưng cảnh sát chỉ nhún vai nói họ chẳng thể làm gì cho tới khi hắn thật sự gây hại cho người khác hoặc tài sản của chúng tôi. “Xin lỗi.” Họ nói. “Luật là vậy.”

Khi ấy, chúng tôi tìm đến bạn trọ của hắn để nhờ liên lạc đến gia đình hắn. Cô gái kia đỏ mặt, tránh nhìn tôi, bảo rằng cô cũng cảm thấy có gì đó không ổn, rằng cô luôn cho là kỳ cục khi nghĩ tôi lại có “một mối tình nóng bỏng” với kẻ ở trọ cùng nhà của cô - một kẻ, theo lời cô kể, hắn thường quên những quy tắc cơ bản về vệ sinh cá nhân và bốc mùi như 4 gói thuốc lá mà hắn hút mỗi ngày. Cô cho chúng tôi số điện thoại của chị gái hắn. Người chị nghe chuyện xong thì kinh hãi, dù không mấy ngạc nhiên - thì ra hắn từng làm chuyện tương tự hồi còn thiếu niên ở Jupiter - và ngay hôm sau chị lái xe tải lên đón hắn đi.

Tối hôm đó, cô gái cùng trọ với hắn đến nhà tôi, run rẩy vì nhẹ nhõm, đưa đôi tay trắng bệch còn lẩy bẩy cho chúng tôi xem. Cô kể mấy ngày trước hắn khoe với cô một khẩu súng - không biết hắn kiếm đâu ra - và cô phải chặn cửa bằng tủ đồ suốt đêm, vì sợ hắn làm chuyện điên rồ nào đó.

“Trời đất ơi!” Chồng tôi nói, giọng nặng nề, rồi anh mua gậy bóng chày cất dưới gầm giường, cho mỗi người một cây gậy, phòng khi ai đó phải bật dậy giữa đêm và vung lên chiến đấu.

Chúng tôi có một thời gian yên bình, nhưng cứ khoảng 2 năm một lần, hắn lại quay về thị trấn và trở lại thói cũ. Chúng tôi lại thấy hắn lảng vảng trên vỉa hè đối diện lối vào nhà, hoặc tôi quên khóa cửa xe và sáng hôm sau phát hiện một bó hoa mộc lan hái trộm từ cây nhà mình đang héo rũ trên ghế phụ. Mỗi lần như thế, chồng tôi - người đàn ông cao lớn, cơ bắp - sẽ đi ra ngoài, cởi trần, cầm gậy bóng chày trong tay, và cảnh cáo hắn bằng giọng trầm đến mức đáng sợ, bởi không có gì khủng khiếp hơn khi những người hiền lành nhất, những người yêu hòa bình, bị dồn đến bước đường cùng.

Vì thế, vào buổi tối sau cơn bão, khi tôi thấy hắn tiến lại gần mình trên con đường - ló ra trong bóng tối như con mèo Cheshire, từ nụ cười cho đến hình hài - cả thế giới trong tôi co lại thành một điểm nhỏ xíu.

Từ khoảng cách chừng 6 mét, hắn gọi tên tôi, hai tay dang ra như sắp ôm lấy tôi. Tôi đáp “chào” dè dặt, khẽ lùi một bước, giữ con chó giữa hai người, rồi bắt đầu rảo bước nhanh hơn, kéo theo con vật tội nghiệp đang nhỏ giọt nước tiểu nhưng vẫn gắng lê bước. Tôi cố giữ giọng mình vui tươi, nói to, dễ mến - bởi khi là phụ nữ, vẻ thân thiện luôn là tuyến phòng thủ đầu tiên. Tôi nói lớn: “Vâng, đúng là tối đẹp trời thật! Con chó hơi lạ chút, dạo này nó có vấn đề sức khỏe, nhưng mọi người ổn cả. À, bầy thiên nga đen đã quay lại đảo nhỏ ở Hồ Vịt rồi, con đực hồi xuân bị đau chân nhưng giờ đã khá.”

Cuối cùng, chúng tôi tới đoạn đường phía trên, nơi ánh đèn đường sáng vàng rực, và ở góc đường, tôi thấy hàng xóm đang dắt hai con chó săn Afghan. Tôi dường như chạy ào tới chỗ chị, vừa ngoái đầu hét “tạm biệt” với gã bám đuôi để hắn chẳng còn cách nào khác ngoài bỏ đi.

“Ối giời ôi, hắn lại trở về rồi.” Người phụ nữ thì thầm, bởi cả khu phố đều biết chuyện của chúng tôi. Con chó của tôi thì lăn ra nằm ngửa, khuất phục trước 2 con chó quý phái lông vàng óng, đang nhìn nó với vẻ khinh khỉnh.

Người hàng xóm tử tế dắt tôi và con chó về tận cửa nhà. Khi vừa bước vào sân sau, tôi nôn mửa. Suốt đêm đó, tôi đi vòng quanh căn nhà tối om, kiểm tra từng cửa sổ, từng cánh cửa lớn, không sao nằm xuống được, vì phần thi công mở rộng căn nhà còn để trống, tấm bạt ngoài hiên vẫn sột soạt trong gió, và mỗi tiếng động đều khiến tôi cảm giác như thế giới đang mài mòn mình thêm vài milimet nữa.

Tôi vốn tự hào là kiểu phụ nữ không để ai bắt nạt mình vì không bao giờ nhượng bộ kẻ bắt nạt - thời trung học của tôi rực rỡ sắc cầu vồng của những trận chinh chiến - nhưng sáng hôm sau, khi nhóm thợ tới làm việc, tôi trốn lên phòng trên gác, cây gậy bóng chày giấu dưới ghế dài, giật mình sau mỗi tiếng đóng sầm cửa bếp. Bầu trời bên ngoài tối thẫm, đè nặng xuống mái nhà như muốn vỡ, như nắm đấm ép vào bong bóng căng tròn. Khi đứng lên bàn, nhìn qua tán bằng lăng nở hoa hồng phấn bên dưới, tôi thấy hắn vắt vẻo ngồi lề đường đối diện xe vào nhà, bên cạnh là những lon nước tăng lực xếp chồng cao nghệu.

Tôi gọi điện thoại cho chồng, nhưng anh đang họp, không thể ra đuổi hắn. Khi tôi xuống báo cho nhóm thợ biết chuyện, gã người Jersey đã đi đâu đó để ăn trưa. Tôi không giỏi tiếng Tây Ban Nha, 3 anh người Venezuela chỉ gật đầu, mỉm cười, liếc nhìn cây gậy trong tay tôi, rồi thì thầm với nhau khi tôi đã rời đi. Tôi biết mình chẳng nói được mấy điều có ích, chẳng truyền đạt được gì. Tôi không dám rời nhà, không đọc nổi một trang sách, không ngủ được, thậm chí khó thở nổi.

“Chà, mẹ, trông mẹ tệ quá.” Đứa con trai út nói khi hai đứa về nhà từ sau buổi tập chèo thuyền. Thằng lớn bảo: “Tội nghiệp mẹ bé nhỏ, đừng lo, tối nay con sẽ dắt chó đi dạo cho mẹ.”

Thằng út chen vào: “Mẹ có muốn ngủ trong phòng con không, để con bảo vệ mẹ?”

Thằng lớn cười khẩy: “Mày thì bảo vệ được gì, với cái tay như sợi mì đấy? Mẹ nên ngủ trong phòng tao, tao sẽ đập nát mặt thằng đó ra.”

Rồi nó giơ cơ bắp khoe trước tấm kính cửa bếp, nơi hoàng hôn đang buông rơi bên ngoài. Thằng em nhìn thấy cũng hăng hái chạy xuống nhà tắm đang xây dang dở để soi gương tập gồng cơ. Nhưng cả hai đứa mau chóng quên khuấy chuyện gồng và cả chuyện kẻ rình rập, vì cha chúng vừa bước vào, mang theo hai con gà quay, một salad Caesar với khoai tây nướng. Và thật choáng váng khi thấy cơn lũ “háu ăn” tràn trong ánh mắt lũ con trai của tôi - chúng hóa thú đói. Ba người đàn ông trong nhà tôi lao vào bàn ăn như thể đã nhịn đói hàng tuần lễ.

Còn tôi, chẳng ăn nổi, chẳng thể tập trung. Tôi chỉ dỏng tai nghe từng âm thanh bên ngoài căn bếp, trong phần còn lại của ngôi nhà.

Đêm đó, tôi lại không ngủ được. Tôi nằm trên ghế dài trong văn phòng, đếm từng hơi thở. Khi nhóm thợ tới, họ bước thật khẽ. Chỉ có hai người Venezuela đang quỳ lát gạch trong phòng tắm, không ngẩng đầu chào như mọi khi. Gã người Jersey thì mặt mày tái mét, lóng ngóng tìm đồ nghề trong hộp. “Héctor đâu?” Tôi hỏi. Gã nuốt khan, yết hầu gồ lên, mắt đỏ hoe, rồi nói: “Gã biến mất trong đêm rồi.”

Tôi căng thẳng đến mức gần như bùng nổ. Tôi suýt hét lên: “Gã không thể tự nhiên mà biến mất được! Là người ta bắt gã đi! Chính các anh để mặc chuyện đó! Là lỗi của các anh! Các anh đã chọn điều này!” Bởi suốt mấy tháng nay, cái đề can dán sau xe bán tải của gã đó đã khiến tôi muốn giận điên lên. Nhưng tôi không nói gì, và sự im lặng ấy, tôi biết, là hèn nhát. Vì giữ lại nhóm thợ này làm việc đã đủ khó rồi - công trình họ làm thì hời hợt, nhưng nếu họ bỏ đi, ngôi nhà của tôi sẽ mãi là cái hố mở toang cho đến khi tìm được người làm mới.

Tôi mệt đến nỗi buổi chiều phải chui vào tủ quần áo trên tầng - nơi cất đồ cắm trại - dùng túi ngủ làm một cái tổ nhỏ. Khi chồng về, anh tìm thấy tôi ở đó, nằm cuộn tròn, cây gậy bóng chày dựa tường, đèn pin dội đầu bật sáng, đếm số phần thức ăn sấy khô tôi từng mua hồi dịch giả, tính xem cả nhà sẽ sống được bao lâu nếu hai đứa con vẫn cần 6000 calo mỗi ngày.

“Em ổn chứ?” Anh hỏi. “Em có tập thể dục chưa?” Rồi lặng lẽ khép cửa khi tôi quát lên.

Anh dỗ tôi xuống nhà, ép tôi ăn vài thìa sữa chua, ngồi cùng hai đứa con đang làm bài tập. Có lẽ tôi đã thiếp đi trên ghế sofa, dù vẫn cảnh giác cao độ, vì khi tỉnh lại, trời đã tối, và tôi nghe bước chân chầm chậm trên tấm phủ trải dưới bếp.

Tôi biết ngay, bằng cả con người mình - ở dạ dày, ở cổ họng - rằng đó không phải tiếng bước chân của ai trong ba người đàn ông nhà tôi.

Tôi hiểu ngay rằng thằng nào đó quên khóa cửa bếp, và rằng nếu tôi đứng dậy, tôi sẽ thấy gã rình rập đang đứng đó, trong bóng tối, giữa căn bếp của tôi.

Tôi ngu ngốc để quên gậy bóng chày trong tủ đồ cắm trại, nhưng trong tầm tay lại có một cây đàn ukulele. Tôi chụp lấy, nắm chặt bằng hai tay, rón rén bước qua phòng kính, phòng ăn. Đến khu vực giữa nhà, tôi nhìn qua ô kính trong cửa sổ: bóng hắn in trên đó, đang đứng trong ánh sáng từ chiếc tủ lạnh mở toang, tay bốc khoai tây trộn đựng trong hộp nhựa mà ăn. Ngay cả trong phản chiếu, tôi vẫn thấy rõ những vành móng tay đầy đất của hắn.

Rồi tôi nghe tiếng ghế xoay trong phòng học, và những bước chân khác trên sàn. Trong khung cửa hiện ra bóng đứa con trai lớn của tôi.

Gã rình rập đặt hộp thức ăn xuống, khép tủ lạnh - không kín hẳn - để lại vệt sáng nhàn nhạt. “Ê, tôi là bạn của mẹ cậu đấy.” Hắn nói, rồi bật cười.

Tôi không thể cử động. Không thể thở. Không thể vung cây đàn lên đập vỡ đầu hắn. Không thể đâm hắn bằng cây đàn gãy. Trong khoảnh khắc đó, tôi thấy rõ hàng ngàn kết cục kinh hoàng nổ tung xung quanh mình: bàn tay hắn gần dãy dao bếp, hắn có thể chụp lấy con dao phay và phóng đi; hoặc con trai tôi xông tới, tung một cú đấm hạ gục hắn; hoặc hắn vung chảo gang đập vào đầu con tôi; hoặc con tôi gầm lên, gọi bố và thằng em, rồi cả bốn người lao vào hỗn chiến đẫm máu; hoặc con chó tỉnh giấc, trỗi dậy bản năng sói và cắn cổ hắn; hoặc hắn rút súng từ thắt lưng bắn con tôi; hoặc bầu trời sụp xuống, nghiền nát tất cả trong chớp mắt.

Mọi viễn cảnh đó, cùng hàng ngàn khả năng khác, dồn dập xảy đến trong tâm trí tôi. Mà điều tồi tệ nhất là tôi quá yếu đuối, chẳng thể thoát khỏi cơn đông cứng để cứu lấy đứa con - đứa bé mà tôi từng mang trong lòng, từng nuôi lớn từng tế bào. Bạo lực này đã ra đời cùng lúc với các con tôi - nó là bóng song sinh, dù tôi đã tạo nên các con bằng tình yêu và cẩn trọng.

Những kẻ gào thét trên truyền hình không hoàn toàn sai - đúng là có một nhóm người nguy hiểm trong chúng ta, những kẻ gây ra phần lớn tội ác trên thế giới - và chồng tôi, hai con trai tôi, thuộc về nhóm đó, họ gia nhập câu lạc bộ ấy ngay khi chào đời.

Nhưng thay vì thảm kịch, con trai tôi chỉ nói, bằng chính giọng cha nó:

“Này, giúp tôi chuyện này, được không, ông bạn?”

Gã rình rập - đang căng người như dây đàn - dịu đi đôi chút, đáp: “Ừ, có chuyện gì thế, anh bạn?”

Con tôi nói: “Anh ra ngoài nhé, giờ không tiện để đến chơi đâu, tối nay nhà tôi hơi căng thẳng.”

Nó tiến lên vài bước - giờ nó đã là một người đàn ông to lớn thật sự - và kẻ rình rập cũng lùi lại vài bước, về phía cửa bếp. Hắn nói khi mở cửa: “Ờ, hiểu rồi, không sao, tôi đi đây.”

Rồi hắn đóng cửa lại. Và biến mất.

Con trai tôi khóa cửa. Nó thở dài. “Đi ra được rồi, mẹ!” Nó nói, rồi nhẹ nhàng lấy cây đàn ukulele khỏi tay tôi.

Sáng hôm sau, lòng bàn tay tôi vẫn còn hằn đỏ vết dây đàn.

Nó mang điện thoại đến, gọi cho cha nó. Khi chồng tôi bước vào, toàn thân anh căng lên vì lo lắng. Cảnh sát đến, lấy lời khai. Chồng tôi là người nói, vì tôi đã mất khả năng ngôn từ. Khi họ đi, anh bảo: “Giờ thì ta xin lệnh cấm tiếp cận được rồi, tạ ơn Chúa.”

Tôi ôm con trai mình - đứa con trai khổng lồ, tuyệt đẹp. Làm sao nó học được sự điềm tĩnh đó, khi nó còn chưa biết cầm nĩa đúng cách, và luôn quăng tất bẩn như nấm mọc khắp nhà? Nó đẩy tôi ra, cầm bình nước một lít, bảo: “Đừng lo, mẹ. Con thừa sức hạ hắn.”

Cuối cùng, chỉ còn lại tôi và chồng trong phòng ngủ. Anh ôm lấy tôi đang run rẩy, cố gắng thức, nhưng giấc ngủ vẫn đến với anh - anh luôn có đặc quyền ấy.

Căn nhà chìm vào yên tĩnh. Không còn làn gió làm lay tấm bạt.

Con chó, các con trai, và chồng tôi đều đang mơ, dệt những giấc mơ ấm áp bọc quanh căn nhà như một cái tổ kén dịu dàng.

Còn tôi, dĩ nhiên, vẫn thức trắng - vì còn ai khác ngoài tôi sẽ canh chừng cho họ?

Nguyễn Ngọc Mai (dịch)

Giải thưởng Văn học ASEAN vinh danh hai nhà văn Việt Nam

Giải thưởng Văn học ASEAN vinh danh hai nhà văn Việt Nam

Baovannghe.vn - Nhà văn Nguyễn Tham Thiện Kế và Y Ban (Phạm Thị Xuân Ban) đã vinh dự được nhận Giải thưởng Văn học ASEAN (S.E.A. Write Award) năm 2024-2025. Đây là giải thưởng tôn vinh những nhà văn, nhà thơ đương đại xuất sắc của các quốc gia Đông Nam Á.
Cao Bằng tổ chức chuỗi hoạt động kỷ niệm 85 năm Ngày Bác Hồ về nước gắn với Đại hội XIV của Đảng

Cao Bằng tổ chức chuỗi hoạt động kỷ niệm 85 năm Ngày Bác Hồ về nước gắn với Đại hội XIV của Đảng

Baovannghe.vn - Tỉnh ủy Cao Bằng vừa ban hành Đề án số 01-ĐA/TU (4/12/2025) về tổ chức chuỗi hoạt động kỷ niệm 85 năm Ngày Bác Hồ về nước (28/1/1941-28/1/2026), sự kiện chính trị văn hóa cấp quốc gia, hướng tới chào mừng Đại hội XIV của Đảng.
Lưu giữ hồn cốt ẩm thực dân tộc

Lưu giữ hồn cốt ẩm thực dân tộc

Baovannghe.vn - Văn hóa ẩm thực Việt Nam và Hà Nội là cuốn sách mới nhất trong gia tài sách đồ sộ gồm nhiều thể loại của giáo sư, nhà nghiên cứu, nhà văn Hà Minh Đức.
Chùa Thầy - Thơ Lê Huy Hòa

Chùa Thầy - Thơ Lê Huy Hòa

Baovannghe.vn- Sắc đá hồn nhiên đến ấm trời/ Bên hồ hoa gạo đỏ môi tươi
“Toàn Dân Tiến” kể câu chuyện đời sống đương đại

“Toàn Dân Tiến” kể câu chuyện đời sống đương đại

Baovannghe.vn - Dự án triển lãm mang tên Toàn Dân Tiến của ba nghệ sĩ Nguyễn Ngọc Dân, Đặng Quang Tiến và Phạm Thanh Toàn diễn ra đến hết ngày 30/12, tại số 4 Đào Trí, phường Phú Thuận (TP.HCM).