| Miriam Toews (sinh năm 1964) là nhà văn người Canada. Bà có tác phẩm đột phá năm 2004, bán chạy tại Canada, và đoạt giải thưởng văn học Anh ngữ. Bà còn tham gia điện ảnh năm 2007, phim được trình chiếu tại Liên hoan phim Cannes. Hiện nay, bà vẫn tiếp tục viết văn, tác phẩm đăng trên nhiều tạp chí văn học lớn. |
Chỉ mới hôm qua, buổi chiều, Cor hỏi bà rằng bà có bao giờ nghĩ mình sẽ sống được đến từng này tuổi không, và bà đã trả lời: “Không, chưa từng nghĩ tới.” Bà đang làm gì trên cõi đời này?
Không cần tất cả cha mẹ các cháu phải đọc lá thư này, nhất là Sandra. (Nhưng, Sandra, nếu con đang đọc, xin đừng giận mẹ nhé. Mẹ yêu con rất nhiều. Mẹ nghĩ con biết điều đó.) Bà chỉ muốn thổ lộ riêng với các cháu rằng tất cả những tấm hình thời đi học của các cháu, của tất cả các cháu, suốt bao năm, đủ cả mười ba năm từ mẫu giáo đến lớp mười hai - ôi chao, nhiều lắm! Bà đã cất trong cuốn album màu xanh dày cộp ở ngăn trên cùng của bàn đầu giường ngủ. Trên bìa album có một câu Kinh Thánh trong Thi Thiên: “Tôi ngước mắt lên núi; sự cứu giúp tôi đến từ đâu? Sự cứu giúp tôi đến từ Đức Giê-hô-va, là Đấng đã dựng nên Trời và Đất.”
|
Các cháu còn nhớ Sandra đã treo những tấm ảnh thời đi học đó lên những sợi dây bạc mảnh trong phòng khách của bà, kẹp bằng những kẹp gỗ nhỏ? Nó bảo rằng đó là mốt, và làm vậy thì bà có thể nhìn thấy ảnh các cháu mọi lúc, treo lơ lửng như phơi đồ, ngay trước mắt. Thế là mỗi lần đi qua phòng khách để xuống bếp, vào phòng ngủ, hay ra hiên, bà đều nhìn thấy chúng. Sandra còn bảo rằng treo ảnh bằng kẹp như vậy thì nếu cần dời đi sẽ không làm tróc sơn tường. Nó đã phải sơn lại tường nhà bà nhiều lần chỉ vì chuyện đó, và quả thật rất khó để tìm đúng sắc trắng giống hệt như màu cũ. Các cháu không tưởng tượng nổi bây giờ có đến bao nhiêu loại sơn màu trắng khác nhau đâu.
Chúa phù hộ nó, nhưng bà thật sự không thích ngắm gương mặt của các cháu treo lủng lẳng trên dây, suốt bao năm, ngày nào cũng nhìn chằm chằm vào bà như thế. Bà sợ rằng mình sẽ dần không còn thấy rõ các cháu nữa, bởi vì hình lúc nào cũng ở đó. Bà không muốn chỉ thoáng nhìn lướt qua khi đi qua đi lại giữa các phòng, cũng không thể đứng lâu để nhìn kĩ vì sẽ nhanh chóng mệt và phải ngồi xuống. Từ chiếc ghế trong phòng khách, bà cũng chẳng nhìn rõ được vì ảnh treo khá cao và lại bé xíu - toàn là ảnh chụp ở trường.
Bà muốn được ngắm kĩ gương mặt của các cháu. Bà muốn tập trung nhìn chúng, vào những lúc nhất định, trong sự tĩnh lặng, giống như khi dự lễ nhà thờ, rồi thầm trò chuyện với từng đứa. Đây là một trong những thú vui bà yêu thích nhất. Đôi khi, sau bữa tối, bà vào phòng, lấy album ảnh ra, ngồi trên giường với mấy cái gối êm, một tách cà phê, có khi thêm một miếng kẹo Cuban Lunch hoặc Nutty Club để trên bàn đầu giường, rồi chậm rãi ngắm từng tấm ảnh, từng gương mặt, lật từng trang cho đến hết. Bà không muốn làm việc này hằng ngày, chỉ cần mỗi tháng một lần là đủ.
Vậy thì đây là điều các cháu cần biết: bà đã gỡ hết ảnh các cháu khỏi dây phơi và cất vào cuốn album trong ngăn bàn đầu giường của bà, bàn có chiếc đèn đẹp ấy. Chiếc đèn đẹp đó rồi sau này các cháu sẽ phải tự bàn bạc với nhau, ai sẽ giữ, ai sẽ được thừa kế.
Một chuyện khác: nhiều năm trước, bà đã đào mộ của Roland Sawatsky và mang hũ tro của anh ấy chôn lại sau cái kho thóc ở trang trại nhà mình. Ở đó có một hòn đá đen nhỏ đánh dấu, nhưng không có chữ khắc nào. Đó là hòn đá đen duy nhất. Có thể vẫn còn cái thùng cám bên cạnh, bà từng ngồi lên đó. Bà biết đây là điều khó tiếp nhận, nhưng bà tin các cháu thông minh, tử tế và hiện đại.
Bà chỉ muốn nói rằng bà đã rất yêu ông ngoại Jake của các cháu. Ông là người đàn ông tốt, một nông dân giỏi, một tín hữu Mennonite tốt, và ông đã đối xử rất tử tế với bà. Dù khi người ta lấy đi cái chân của ông, ông vẫn tốt với bà, vẫn giúp đỡ, chẳng bao giờ than phiền.
Có lẽ các cháu đang thắc mắc Roland Sawatsky là ai. Roland là người hàng xóm, ở trang trại kế bên. Hồi còn nhỏ, rồi cả khi đã thành thiếu niên, chúng ta hầu như chẳng bao giờ nói chuyện. Anh lớn hơn bà ba tuổi. Anh ngồi cuối xe buýt với đám học sinh lớp lớn. Giờ đây bà ước gì khi ấy mình biết thêm đôi điều. Ví dụ, một lần anh cưỡi ngựa sang báo cho ba mẹ bà chuyện gì đó. Bà ra xem con ngựa, anh đưa cho bà một củ cà rốt để cho ngựa ăn. Bà hỏi tên ngựa, anh bảo nó tên là Trotsky. Giá mà khi ấy bà hiểu được trò đùa, để có thể bật cười. Dù thật ra cũng không hẳn là trò đùa buồn cười gì cho lắm. Nhưng bà ước giá như bà đã cười nhiều hơn trong đời, nhất là trước những gì được coi là trò đùa.
Người trong thị trấn đều biết Roland là nghệ sĩ piano rất giỏi, lại thông minh. Anh học đại học ở Winnipeg, nhưng vẫn ở trang trại của nhà anh. Các cụ nhà mình kể rằng bố mẹ anh không muốn anh đi học, cuối cùng phải thỏa hiệp: anh vẫn ở trang trại nhưng đi đi về về để đến lớp ở thành phố. Chị gái lớn của anh thì đã đi học trường Kinh Thánh ở Mỹ. Cô muốn làm cho tổ chức Wycliffe Bible Translators ở Quito, Ecuador. Bà nghĩ cô đã làm đúng như vậy với một người Mỹ cô gặp ở trường Kinh Thánh, nhưng bà không chắc. Cô tên là Ruthie. Một lần, dọc hàng cây phân ranh đất giữa hai trang trại, khi bà mới 10, 11 tuổi, Ruthie nói với bà rằng Roland là một thằng ngốc.
Đôi khi Roland đi nghe những buổi hòa nhạc mà người thành phố về biểu diễn ở hội trường của trường trung học. Toàn nhạc cổ điển, thứ không bị coi là tội lỗi. Roland luôn ngồi ở hàng ghế đầu tiên. Người ở thị trấn chế nhạo anh sau lưng, thậm chí cả trước mặt, vì anh ngồi im phăng phắc, chăm chú, và lúc nào cũng chọn hàng đầu. Một lần, chính anh còn tự tổ chức một buổi hòa nhạc ngắn ở đó. Chuyện thật lạ. Anh dán poster khắp thị trấn, ai cũng tò mò mà cũng lo lắng: Sao anh ấy lại làm thế? Bà vẫn còn giữ một tờ poster đâu đó. Sau này các cháu có thể tìm thấy. Ai muốn thì giữ, rồi các cháu lại phải bàn bạc với nhau. Trong đó có bức vẽ hài hước Roland tự vẽ mình ngồi bên piano, kèm ngày giờ địa điểm buổi diễn.
Bà đã đến xem, đi một mình. Thực ra hôm đó cũng chỉ có hai, ba người. Bà ngồi hàng ghế đầu. Bà nhớ đôi tay Roland nắm chặt hai bên ghế đàn. Đôi tay thật mạnh mẽ, vững vàng. Bây giờ người ta gọi là gì nhỉ? “Tuyệt vời”? Giờ cái gì cũng “tuyệt vời”. Anh xê dịch chiếc ghế mãi, nhích tới, nhích lui, nhích sang trái, sang phải. Đôi tay anh vẫn nắm chặt ghế đến khi tìm đúng chỗ. Bà còn nhớ, trước khi bắt đầu, anh đưa tay vuốt xuống ngực, từ trên xuống rồi lại từ trên xuống, mấy lần liền, như đang vuốt phẳng cái áo sơ mi, hay giữ cho trái tim yên chỗ. Nhưng giờ nghĩ lại, chắc là anh đang lau mồ hôi tay.
Một điều khác bà nhớ là khi biểu diễn, có lúc anh ngửa hẳn đầu ra sau, để lộ cả cổ họng, lộ yết hầu. Bà chưa từng thấy ai như vậy. Người ta chỉ cúi đầu: cầu nguyện, nhìn ruộng, nhìn trẻ con, nhìn xuống đất. Một vài lần, anh lại cúi đầu xuống sâu đến nỗi gần như tựa má lên phím đàn mà vẫn chơi nhạc. Khi ấy bà lại muốn thấy anh ngửa đầu trở lại. Khi anh ngửa đầu, bà nhìn thấy mồ hôi chảy trên cổ, trượt vào cổ áo. Mắt anh nhắm nghiền. Anh còn phát ra những âm thanh nữa, thứ mà sau này người trong thị trấn hay trêu chọc, bắt chước.
|
Khi kết thúc, anh đứng cạnh cây đàn. Chẳng có tiếng vỗ tay, vì chúng tôi không vỗ tay. Bà nghĩ anh đã nhìn thấy bà ở đó. Anh mỉm cười. Anh thở hổn hển. Bà không nói chuyện với anh. Bà ra về. Trên đường về, bà cũng ngửa đầu lên để thử cảm giác ấy. Lúc đó trời đã tối.
Rồi, một tháng sau - hay có lẽ lâu hơn thế - Roland lại đến trang trại, báo cho ba mẹ bà rằng anh sắp đi học xa và năm đó sẽ không thể giúp vụ mùa. Anh cưỡi ngựa. Anh hỏi bà có muốn đi cùng không, và bà đáp “Không.” Anh nhắc lại lời bà: “Không ư? Hay là… có?” Bà lại trả lời “Không.” Và anh ngửa đầu ra, phát ra tiếng rên như lúc chơi piano trong hội trường trường học, nhưng lần này bà nghĩ anh chỉ giả vờ đau khổ thôi. Bà khẽ chạm vào mặt con ngựa của anh. Rồi anh đi mất. Bà không bao giờ gặp lại anh nữa. Đó là lần cuối cùng chúng tôi nói chuyện.
Cụ ông kể rằng Roland đã nhận được học bổng Rhodes để sang Đại học Oxford, ở Anh. Nhiều người trong thị trấn không hiểu vì sao anh lại chọn ra đi. Họ không thích nhắc đến chuyện đó. Họ thấy tội cho ba mẹ Roland. “Nó sẽ làm gì với mớ ý tưởng đó chứ?” Họ nói. Bà vẫn nhớ cha của Roland đứng dưới ánh đèn sân, muỗi bay đầy trời, vừa nói chuyện với cụ ông vừa buồn bã lắc đầu, còn cụ ông thì đặt tay lên vai ông ấy để an ủi.
Chuyện gì xảy ra sau đó ư? Thời gian trôi đi, ta gặp Jake - thật ra thì bà đã quen ông ấy cả đời - rồi chúng ta kết hôn, làm nông, gây dựng gia đình. Sandra ra đời đúng chín tháng sau đêm tân hôn. Chúng ta ở lại trên nông trại, nông trại của cụ, còn hai cụ nhà ta thì dọn vào thị trấn.
Rồi một ngày, bà đang ở ngoài sân cùng bọn trẻ thì cha của Roland đến tìm Jake. Khi ấy cụ trông đã già với bà, nhưng bây giờ nghĩ lại, cụ không hề già đến vậy. Cụ và vợ vẫn sống ở trang trại cạnh nhà bà, ruộng đồng của chúng tôi giáp nhau. Hôm đó Jake không có ở nhà, nên cụ nói chuyện với bà. Cụ bảo Roland đang gặp rắc rối ở Anh. Cụ không nói rõ là rắc rối gì. Cụ bảo cụ và vợ dự định sẽ sang Anh gặp Roland, và nhờ ông bà cho gia súc của cụ ăn trong thời gian họ vắng nhà.
Rồi tuần sau, cha Roland lại đến, lần này Jake có ở nhà. Họ ngồi trong bếp, cùng cầu nguyện. Hôm đó là tháng Chín, nhưng trời vẫn ấm. Cha Roland nói rằng họ sẽ không đi Anh nữa, vì điều đó sẽ quá đau đớn cho mẹ Roland. Thay vào đó, họ sẽ mua vé máy bay cho Roland về nhà. Khi đó anh đã ở Anh nhiều năm rồi, tám hay chín năm, bà nghĩ vậy. Sau khi cha Roland rời đi, bà hỏi Jake khi nào Roland sẽ về. Ông bảo chắc tuần sau, nhưng không chắc lắm.
Đêm đó bà trằn trọc không ngủ được, hôm sau chẳng thể tập trung vào việc nhà hay chăm con. Del bị mắc chân vào một cái bẫy nào đó mà bà quên cất lại vào bụi cỏ. Bà không nhớ rõ đó là bẫy sói hay loại bẫy gì khác. Bây giờ Del bao nhiêu tuổi rồi nhỉ? Sáu mươi? Nó vẫn còn vết sẹo kinh khủng đó vì sự cẩu thả của bà.
Tuần sau, vào tối thứ Tư sau bữa cơm, cha Roland lại đến nhà. Cụ nói: “Roland của chúng tôi đã mất rồi.” Cứ thế thôi. Roland của chúng tôi đã mất ở Anh. Jake hỏi cha Roland anh mất như thế nào, nhưng cụ không biết. Cụ đứng dậy, lắc đầu. Cụ nói cụ và vợ không muốn biết Roland đã chết ra sao. Năm đó là 1969. Trong thị trấn, người ta đồn rằng Roland dính vào ma túy hay gì đó và giao du với đám bạn xấu. Nhưng chỉ là lời đồn. Tro cốt của anh sẽ được gửi từ Anh về, và cha mẹ anh sẽ chôn trong một cái hũ ở trang trại. Hội thánh của chúng ta không tin vào hỏa táng, nhưng chính quyền Anh nói với cha Roland rằng gửi tro “rẻ hơn rất nhiều” so với gửi thi hài (bà nhớ câu đó vì cụ nói bằng tiếng Anh, dù bình thường cụ chỉ nói phương ngữ tiếng Đức), mà cha mẹ Roland thì rất nghèo. Jake nói rằng hỏa táng Roland cũng đồng nghĩa không ai có thể khám nghiệm tử thi để tìm nguyên nhân cái chết, và như thế là tốt nhất, vì chẳng ai muốn biết lý do cả. Nhất là mẹ Roland.
Roland không thể được chôn trong nghĩa trang của hội thánh vì đã rời khỏi hội từ lâu. Jake hỏi cha Roland liệu có làm lễ tang không, cụ nói không. Jake hỏi liệu chúng ta có thể chứng kiến khi hạ huyệt để bày tỏ lòng kính trọng không. Cha Roland đồng ý. Và nhờ thế mà bà biết Roland được chôn ở đâu trên mảnh đất của nhà họ.
Vậy đó, trong một thời gian dài sau, mỗi ngày khi đi dạo bà đều đi ngang qua mộ Roland và thì thầm: “Phải, tôi đã định nói đồng ý.” Bà không thể chỉ nói thầm trong đầu; bà phải phát ra thành tiếng. Bà phải nói, chứ không chỉ nghĩ. Nếu có ngày nào không đi ngang qua mộ, bà sẽ nói lại hai, ba lần, bù cho những ngày đã bỏ lỡ. Ví dụ, khi sinh đôi, bà nằm viện mười ngày, và sau đó phải nói mười lần. Rồi dần dần, người ta ngừng nhắc đến Roland và cái chết bí ẩn của anh. Họ chỉ nói: “Thế giới vốn dĩ đã xấu xa. Và Roland nhận ra điều đó.”
Rồi, nhiều năm sau nữa, cha mẹ Roland đều qua đời, chỉ cách nhau vài tháng. Họ đã già. Khi đó Jake cũng đã mất rồi. Ông ra đi trong thanh thản, vì ông đã chịu nhiều đau đớn. Các con chúng ta đều trưởng thành và rời nhà. Ngay cả Del, với cái chân tật nguyền, cũng đã ra đi.
Chị gái của Roland, Ruthie, lúc đó sống ở Santa Barbara, California. Chị đã gặp người đàn ông Mỹ tại trường Kinh Thánh ở Omaha, Nebraska, rồi họ kết hôn, sau khi làm công tác truyền giáo ở Quito, Ecuador thì chuyển đến California. Khi cha mẹ Roland mất, Ruthie bay về lo toàn bộ tang lễ. Cha mẹ anh được chôn trong nghĩa trang của hội thánh, vì họ vẫn là thành viên.
Ruthie đến nhà bà và nói rằng chị sẽ bán trang trại của ba mẹ, và đã thuê một nhóm người đến cải táng Roland, đưa anh sang Santa Barbara, California, để ở cạnh chị, con cái và cháu chắt của chị. Đó là ý tưởng của đứa cháu gái Madison: rằng Roland nên được ở cùng gia đình, chứ không phải nằm cô độc ngoài cánh đồng lạnh giá nào đó ở Canada. Ruthie bảo rằng các cháu của chị trước đó còn không biết Roland từng tồn tại, cho đến khi một người anh họ nói ra tại một đám tang ở Wheaton, Illinois. Chị lắc đầu, không nói thêm gì về Roland. Chị giận vì người anh họ đã “thốt ra”. Bà nhớ mãi cách chị dùng từ đó. Thốt ra.
Chúng tôi ngồi uống cà phê, ăn bánh ngọt và phô mai. Madison thì đang học ngành “giải quyết xung đột”. Khi Ruthie nói thế, bà bật cười, vì chưa từng nghe đến ngành học kỳ lạ như vậy. Nhưng Ruthie bảo đó là lĩnh vực nghiêm túc. Chị nói mấy ngày nữa người ta sẽ đến cải táng Roland.
Tối hôm đó, bà bắt đầu đào. Bà mang theo một cái đèn pin nhỏ. Lúc ấy bà đã ngoài 60. Đêm đầu, bà đào khá sâu. Bà lấy một chiếc khăn choàng trẻ con phủ lên hố, chèn bốn góc bằng đá, rồi ngụy trang thêm cành khô, cỏ, và rơm rạ. Đêm sau bà quay lại, đào đến tận chỗ hũ tro của Roland và đem nó đi. Bà lấp đất lại, phủ cành khô. Chiều hôm đó, nhóm người kia đến để bốc mộ Roland, nhưng tất nhiên, họ không tìm thấy gì. Họ thử nhiều chỗ khác nhau. Ruthie đến, bảo rằng thật lạ, chị đã chắc chắn về chỗ chôn cất. Họ đào bới cả ngày, đến tận tối. Cuối cùng, họ bỏ cuộc, và Ruthie trở về Santa Barbara tay trắng.
Bà đem chôn Roland sau kho thóc, như bà đã kể. Bà mong các cháu sẽ tìm thấy hòn đá, và cả cái xô bà ngồi lên. Khi ấy các cháu sẽ biết Roland ở đâu.
Nếu các cháu đang đọc những dòng này, nghĩa là bà cũng đã ra đi. Mảnh đất này, nay là của các cháu. Bà chỉ mong các cháu sẽ cho chị gái Roland biết nơi anh được chôn, để chị có thể đưa anh về, cho anh đoàn tụ, cuối cùng, với gia đình, những gì còn lại, ở California. Hãy tưởng tượng Roland yên nghỉ dưới bóng dừa, quanh năm nắng ấm.
Nhưng nếu các cháu không thể, hoặc không muốn - vì bà biết các cháu bận rộn - hoặc không biết làm sao tìm được chị ấy, hoặc chị ấy thậm chí đã không còn, thì hãy để Roland nằm lại nơi này. Và chỉ cần ghi nhớ - ôm lấy trong tim, hay thì thầm khẽ, nếu điều đó không khiến các cháu thấy ngớ ngẩn - rằng khi bà nói “không”, lẽ ra bà đã phải nói “có”. Các cháu có thể nói to điều đó, ngước mắt lên trời, như một lời cầu nguyện:
Lạy Chúa, xin tha thứ cho bà. Bà đã muốn nói “có”.
Nguyễn Ngọc Mai (dịch từ The New Yorker)