Năm nào cũng cứ qua tiết Thu là lại hẹn bạn bè chuẩn bị mời nhau bữa chả rươi. Tứ thời bát tiết” ở xứ mình mùa nào tiết nào hầu như cũng có món ngon đặc sắc rải rác luân phiên khắp các vùng miền. Nhưng, hễ nghĩ thêm một tí lại thấy lạ: chẳng phải sự vật hay cây con hay món ngon nào cũng được đi vào ca dao thành ngữ tục ngữ. Con rươi là một sản vật trong số không nhiều những món ngon, những sự vật được ưu ái như thế. “Tháng chín mưa rươi, tháng mười mưa cữ.” Tháng Chín âm lịch xưa đến nay đều có gió bấc thi thoảng về kèm mưa những cơn dài ngắn khác nhau, nhưng mau hạt hay đôi khi khá lớn, tạo nên một khung cảnh đặc trưng mùa thu Bắc hà, có các điều kiện thuận lợi đặc thù, hầu như duy nhất, để đánh thức “đồng hồ sinh học” của họ nhà rươi ở đồng bằng Bắc bộ.
|
“Tháng chín mưa rươi...” nghe câu ấy cứ ngỡ rươi là từ trên trời đổ xuống vậy. Mưa rươi những cơn cứ chập chờn ẩn hiện, thoắt rơi, thoắt ngừng, không biết đâu mà lần. Mưa cứ như mời gọi, đánh thức loài rươi ngủ vùi suốt cả năm ròng đâu đó rồi từ trong bùn đất ngoi lên. Mưa nứt “lỗ rươi”, và rươi thoát ra, quyện với nhau thành từng mảng trôi đi màu mỡ dềnh dàng, lúc nha lúc nhúc. Bấy giờ, từ những chân ruộng ngoài đê cho đến các con hói con mương, rươi lên ngầu ngã. Chúng bơi loạn xạ, rối rít, lăng xăng, nom thật vui mắt. Khi ấy, nếu trời đương nắng cũng tự nhiên râm hẳn lại. Người già bảo đó là rươi đi, bóng che rợp trời! Truyện nôm Nhị Độ Mai mượn ý này để tả cảnh: “Tiểu hầu, thầy tớ một đoàn như rươi”. Câu đố dân gian thì khoa đại một tưởng tượng phóng túng:
Con gì bé tỉ tì ti
Mình đi dưới đất, bóng đi trên trời
Một năm mấy bận đi chơi
Đi thời lở đất long trời mới yên.
Rươi thuộc một họ giun gọi là giun tơ, rất đông đúc về các chi ngành, mà phần lớn sống ở biển. Loài rươi mềm như bún ngoi lên mặt nước nhờ phù sa vùng Nam đồng bằng Bắc bộ (và một vài vùng lúa khác nữa) là một chi trong cái họ giun kỳ lạ đó. Thực ra hầu hết người ta chẳng biết rươi từ đâu về, trú ẩn ở đâu trước khi nổi lên và đi đâu sau khi biến mất trong nước đục. Từng có người đào đất ở những ruộng có rươi để tìm “ổ” rươi. Nhưng không mảy may dấu vết nào.
Đấy là của trời ban. Người ta đi vớt rươi về bán mười mấy ngàn một lạng chẳng bao giờ lo bị đánh thuế tài nguyên. Trong dân gian gọi rươi là rồng đất. Và mỗi vùng miền có rươi đều có nhiều cách gọi khác, từ chữ nghĩa đến thông tục: hoà trùng, bách cước, thổ hà, tôm đất, sâu đất, sâu lúa…
Cái tên chữ của rươi có lẽ do từng được vua Trần Nhân Tông nâng lên như một món ăn tinh thần: “Thổ hà hoàng quất tặng vãng hoàn” (Rươi tươi, quýt vàng là thứ quà có thể tặng nhau)
Sương đăng bạng giải nguyệt,
Hoàng quất thổ hà thiên
Tạm dịch nghĩa là:
Sương xuống, chanh tươi, cua béo ngậy
Quýt vàng màu ấy chính mùa rươi.
Chả rươi vỏ quýt mà chén thì ngon phải biết. Tuy nhiên có đôi hàng bán các món rươi “độn” vỏ quýt khiến có câu dân gian ngấm nguýt: “Mắm rươi thì ít, vỏ quýt thì nhiều.”
Và chuyện đời nhiều lẫn lộn thiếu sòng phẳng bị ví von như “Măng nấu rươi, cua nấu khế”, ”Chẳng ra măng ra rươi gì cả!” và thế thì: “Ăn măng nói rươi, nghiêng trời lở đất. Ăn ngay nói thật, mọi tật đều lành.”
Hay bóng gió đa nghĩa hơn nhiều nữa: “Thả vỏ quýt ăn mắm rươi” “Một bát rươi mười bát thuốc.”
Liên quan đến “bát thuốc” có lẽ bởi rươi xuất hiện như một hiện tượng của biến đổi thời tiết. Những lúc ấy trời giở nóng giở lạnh, mưa thảng thốt, nắng oi nồng, người già đau lưng nhức chân, người hen xuyễn khó thở, người đau khớp kêu la, nên cũng có câu rằng: “Lại kẻ ăn rươi lại người chịu khổ!” hay: “Kẻ ăn rươi, người chịu bão”.
Miếng chả rươi thì ngon lạ mà mùa rươi thì dường rất ngắn bởi như đã nói, bầy rươi xuất hiện bao giờ cũng như trên trời rơi xuống dưới đất chui lên và biến đi cũng hoang đường như thế. Liệu có phải chỉ vì cái dư vị của miếng ngon đến mức “nhớ đời ”, khác thường đọng lại mà dân gian có câu gắn rươi với chữ “động”: “Tháng chín động rươi, tháng mười động gia, tháng ba động ruốc.”?
Tháng Chín có rươi ăn. Tháng Mười ốm đau nhiều, ngày nào kèn đám ma cũng inh ỏi xóm làng. Tới tháng Mười Một đi hớt con ruốc ngoài cửa sông (một loại động vật phù du gặp ở Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định. Không phải con ruốc của người Quảng Ninh. Quảng Ninh gọi con bạch tuộc là con ruốc). Con ruốc nấu riêu cà chua ăn với rau ghém khoái khẩu. Ăn những miếng ngon lạ thế lại ngẫm nghĩ: phải chăng cái món mình thưởng thức bây giờ không chỉ đơn giản là một món ăn “chơi”, mà là cái ăn, của ăn - những thứ thực phẩm hiếm “Trời cho” để bổ sung vào cái thực đơn đạm bạc của nền nông nghiệp độc canh, tự cung tự cấp bao nhiêu đời. So ra, thì thấy, cha ông mình từng gọi những củ khoai củ gừng là “sâm Nam”, con đỉa bể là “hải sâm” đấy thôi! Vì món sâm đúng nghĩa mấy ai đủ sức mua dùng. Nên con rươi con ruốc chắc hẳn đóng vai những liều pô-ly-vi-ta-min đặc hiệu mà kinh nghiệm sống bao đời nếm trải đúc kết. Hẳn là có đáng giá đến vậy thì sự xuất hiện của những đàn rươi mới được xem như một cơn “động” như là “động rừng, động biển.” Là những cơn đảo lộn của trời đất, theo quy luật nhưng luôn bất ngờ, khó hiểu, đủ cả lợi hại khôn lường.
“Dân coi miếng ăn là trời.” Miếng ăn đi cùng biến động. Hẳn thế nên mới có thành ngữ “Trộm cắp như rươi.” Những người bà người ông xa tắp ngày xưa của chúng mình đã bao nhiêu phen phải gánh rươi lên chợ trong cảnh thời thế loạn lạc rối ren, cướp đêm cướp ngày tung hoành lẫn lộn - chẳng khác gì hình ảnh đàn rươi trong đôi thúng sơn ngổn ngang khó mà phân biệt con nào với con nào.
Cho nên con rươi đi vào cả những câu ca dao theo mô-típ rất điển hình của sự diễn tả hy vọng bình an nơi dân dã:
Ước gì cho đến tháng mười.
Bát cơm thì trắng bát rươi thì đầy.
Lại đến mùa hẹn bạn ăn rươi. Lại ngẫm nghĩ về những điều cha ông đã ngẫm nghĩ quanh sự quý hiếm của một món ngon dân dã. Lại thấm thía cái mơ ước ngàn đời của người xưa về một cuộc sống no đủ, sung túc.