Sáng tác

Người làng Ner. Truyện ngắn của Ngọc Tấn

Ngọc Tấn
Truyện 11:49 | 28/07/2025
Baovannghe.vn- Hoàng hôn phủ lên khoảng trời cuối rừng những vệt mây vàng chói như sơn mài. Trận bom B52 rải xuống cánh rừng bên kia suối hãy còn phảng phất mùi khói. Tôi và Thái đang ngồi trong lán thống kê số hàng chuyển đến trạm trong ngày thì bỗng nghe tiếng ồn ào ngoài kho vọng đến. Chắc có chuyện gì đây, tôi và Thái cùng ra xem thử...
aa

Trước cửa kho, mấy cậu lính vận tải đang xúm quanh một cô gái chừng mười tám tuổi, nước da đen giòn, thân hình chắc lẳn trong bộ quân phục. “Các thủ trưởng xem gùi hàng cô ấy cõng đến này: Hai thùng đạn nặng 105kg đấy!” Quả là một kỉ lục mà trước nay mấy cậu lính vận tải khỏe nhất binh trạm cũng chưa dám mơ tới. Thấy mọi người không ngớt trầm trồ, cô đỏ mặt bối rối như không biết giấu mình vào đâu. “Một điển hình phải được biểu dương, khen thưởng xứng đáng.”

Người làng Ner. Truyện ngắn của Ngọc Tấn
Minh họa Vũ Đình Tuấn

Tôi và Thái mời cô về lán uống nước. Hỏi chuyện, chúng tôi được biết cô tên là Siu Ly, dân tộc Jrai, người làng Ner. Mới năm ngoái, một quả bom Mỹ đã ném trúng căn hầm nơi cha mẹ và hai đứa em cô ẩn nấp. Hôm đó cô thoát chết nhờ tình cờ ngủ lại ngoài chòi rẫy với bạn. Mang mối thù chất nặng trong lòng, cô lên xã xin vào du kích. Được một thời gian cô xin đi thoát li rồi được phiên chế vào Tiểu đoàn vận tải B3…

Cô gái đi rồi, tình cảnh đáng thương với giọng nói nhỏ nhẹ mà cứng cỏi vẫn cứ ấn tượng mãi trong tôi. Đêm đó tự dưng Thái cũng lục sục không ngủ, hết rót nước uống lại ra trước lán ngồi. “Lẽ nào cô gái cũng khiến cõi lòng anh chàng rung động?” Nghĩ vậy tôi đùa: “Phải lòng người ta rồi chứ gì? Đừng lo, mai mốt người ta lại cõng hàng đến đó mà.” Thái lặng im không trả lời...

Cùng một thuở thiếu thời cơ cực, cùng vào bộ đội với chúng tôi, hết đánh Pháp lại xung phong đi B lứa đầu tiên, giờ đã gần bốn chục tuổi đầu, sự rung động trước một người con gái của Thái cũng là lẽ tự nhiên. Điều này lại càng dễ hiểu hơn khi tôi biết anh chàng đã có một mối tình xúc động mà oái oăm hiếm gặp... Quảng Trị quê tôi vốn nghèo, nhà Thái lại nghèo có lẽ vào hàng đầu xứ ấy. Nhà có mỗi sào ruộng cạn, cha mẹ Thái phải đi làm thuê khắp các làng để nuôi con. Rồi cha Thái mắc bệnh cổ trướng. Chạy vạy hết cách để chữa bệnh, đến khi ông chết thì tài sản chỉ còn cái xác nhà tre. Không biết lấy gì để làm ma cho chồng, mẹ Thái đành liều vay sáu thúng lúa của ông Khỏn, một nhà giàu ở làng bên. Lệ vay, cứ mỗi năm một thúng lúa lãi thành thúng rưỡi. Mới sau hai năm, sáu thúng lúa ban đầu đã thành mười tám thúng. Không còn cách nào trả nổi, mẹ Thái phải cho con đi ở để trừ nợ... Mới tuổi mười bảy nhưng Thái đã có một thân hình vạm vỡ, nước da trắng khiến không ai nghĩ là con nhà nghèo. Lại cái nết làm việc siêng năng khó ai bằng khiến cô Côi, con gái út của ông Khỏn thầm yêu trộm nhớ. Cho đến một ngày không kìm được, cô đã bộc bạch lòng mình với cha. Ông Khỏn lúc đầu phản đối nhưng rồi sau thấy cô con gái cưng tha thiết quá đành phải ngỏ lời với mẹ Thái. Ông hứa nếu Thái lấy cô Côi, ông sẽ xóa hết nợ và cho đất dựng nhà. Côi nết na lại xinh đẹp, địa vị cô là ước ao của bao trai làng, thế nhưng Thái thì lại thấy lòng mình dửng dưng. Thương mẹ nhưng không biết cách nào từ chối, Thái đành lần khân để hoãn binh, nói mẹ xin thêm một, hai năm để cứng cáp chuyện gia đình... Giữa lúc đó thì quê tôi bị giặc Pháp tái chiếm. Nghe chúng tôi bàn nhau trốn lên chiến khu, Thái theo liền. Anh nói với tôi: “May quá, vậy là tau và Côi đều được giải thoát. Tau thì thoát kiếp con ở, còn Côi thì thoát mối tình đơn phương.”

Nhưng Thái đã không hay rằng lúc đang cùng chúng tôi sống một cuộc đời vô tư, chưa nghĩ bao giờ mới có ngày về thì ở nhà mẹ Thái đã cưới cô Côi cho anh. Thái chỉ biết được điều này trong một dịp đơn vị tôi bí mật ém quân ở làng bên để chuẩn bị tập kích đồn Dốc Miếu. Được dịp, Thái xin chỉ huy lẻn về xem mẹ và các em thế nào vì đã gần ba năm anh bặt tin nhà... Vừa hé cánh cửa liếp, qua ánh trăng hắt vào, Thái nhận ra mẹ anh và cô Côi đang ngồi bên bếp. Sau phút sững người, mẹ anh vừa dứt câu “Ở nhà tau đã cưới vợ cho mi rồi đó” thì tiếng chó bỗng sủa ran khắp làng. Bọn địch đang đi sục. Lập cập cầm tay hai người, bà dắt ra sau vạt chuối đẩy xuống hầm bí mật. Căn hầm chật căng, khẽ quờ tay, Thái đã chạm ngay vào thân thể ấm nóng của Côi. Nghe hơi thở, anh biết Côi đang chờ đợi cái phút giây đầu tiên của đời chồng vợ, thế nhưng lòng Thái thì chẳng chút mảy may rung động. Sau lúc im lặng kéo dài, Thái thấy phải nói thẳng điều cần nói với cô mà chưa có dịp: “Côi ạ, tui... cảm ơn cô đã yêu tui. Nhưng mà nói thật tui thì lại... không yêu cô. Hơn nữa tui đang đi đánh giặc, chuyện sống chết cũng chẳng biết thế nào. Chắc chắn Côi sẽ lấy được người xứng đáng hơn tui nhiều. Thế nên Côi hãy quên tui đi. Hai đứa mình chỉ nên coi nhau như anh em thôi...” Đêm đó Côi đã úp mặt vào thành hầm sụt sùi cho đến sáng…

Năm 1954 đơn vị tôi lên đường tập kết nhưng chưa đầy năm thì được lệnh trở vào bảo vệ giới tuyến... Với Thái, sau cái đêm trắng đầy nước mắt đó, anh đinh ninh là Côi sẽ từ bỏ mình để đi tìm hạnh phúc khác. Thái đã không hay rằng Côi vẫn cứ yêu anh và tin rằng sẽ có lúc anh nghĩ lại. Thế nên chẳng biết dò hỏi từ đâu, biết được tin Thái đang đóng quân ở Vĩnh Linh, Côi và mẹ Thái đã vượt tuyến ra thăm. Lần này để chắc ăn, bà xin gặp trung đoàn trưởng chúng tôi, kể cho ông nghe tường tận nỗi nhà. Bà vừa rời phòng khách, Trung đoàn trưởng lập tức bảo tôi đi gọi Thái lên. “Tôi vừa nghe bà cụ kể hoàn cảnh éo le của cậu - giọng Trung đoàn trưởng đầy vẻ nghiêm khắc. - Với một người con gái yêu cậu đến thế, thủy chung với cậu đến thế, tôi không hiểu cậu còn muốn gì hơn? Quan điểm đạo đức của người lính cách mạng cho phép cậu vô cảm trước một tình yêu như thế hay sao? Vậy tôi ra lệnh: Tối nay cậu phải xuống chiêu đãi sở với cô ấy.”

Như sợ Thái chưa nghe rõ, ra đến cửa ông còn quay lại: “Đây là mệnh lệnh, cậu không chấp hành, tôi sẽ kỉ luật…”

Trung đoàn trưởng đi rồi, Thái vẫn đứng như trời trồng, lúc lâu sau mới di những bước chân nặng nề về phía chiêu đãi sở. “Lần này thì chắc anh chàng phải chịu phép rồi. Thôi thế cũng tốt, biết đâu nhờ vậy mà cậu ta sẽ tìm thấy tình yêu.” Tôi thầm nghĩ. Nào ngờ sáng gặp nhau, Thái đã rỉ tai tôi: “Động tác giả của tao để che mắt Trung đoàn trưởng đó. Chờ đến nửa đêm là tao lẻn sang phòng bên ngủ với mẹ.” Đến nước này thì Côi tuyệt vọng. Cô hiểu là không thể nào làm rung động con tim Thái được. Trước hôm chia tay cô khóc, nói: “Tui với anh không nên duyên phận trong đời thì cũng nên duyên phận trong mộng. Anh phải để lại cho tui cái chi kỉ niệm chứ?” Thái bối rối. Biết kỉ niệm gì bây giờ? Thôi thì ra tiệm chụp với nhau một kiểu ảnh vậy! Buồn cho cô Côi, chút kỉ niệm bẽ bàng ấy cũng tiêu tan nốt. Lúc trên đường về, dù tấm ảnh đã được cô cuộn lại giấu trong đòn gánh nhưng bọn cảnh sát Ngụy vẫn tìm thấy. Chúng xé tan tấm ảnh và đánh cô một trận tơi bời... Sau chút kỉ niệm bẽ bàng đó, Thái cùng lên đường đi B với chúng tôi. Cô Côi từ đó cũng bặt tin luôn…

… Thái mang nỗi lòng mình ngỏ lời với Siu Ly. Lúc đầu cô từ chối. Siu Ly nghĩ rằng hẳn là Thái đã có vợ con ở quê, chỉ là muốn lừa cô thôi. Thái mang câu chuyện éo le của đời mình kể cho Siu Ly nghe, cô vẫn không tin, bảo anh bịa. Đến khi hiểu ra nguyên nhân sâu xa khiến Thái vô cảm trước người con gái yêu anh rất mực ấy, Siu Ly mới tin Thái yêu mình thật lòng… Đám cưới của Thái đối với đơn vị tôi là một sự kiện. Trung đoàn trưởng ra lệnh thịt con heo to nhất chúng tôi nuôi được. Dân làng Nú kết nghĩa cũng cõng đến 6 ghè rượu mừng. Giữa những tiếng nói cười chuếnh choáng, đến lúc ra về, Trung đoàn trưởng còn ghé khuôn mặt đỏ bừng vào tai Thái nghiêm giọng: “Đã xác định tư tưởng chắc rồi thì phải chung thuỷ với cô ấy đấy nhé, không có mai mốt giải phóng rồi…” Thái đứng nghiêm, trả lời bằng cái giọng đặc sệt Quảng Trị: “Tui xin hứa với thủ trưởng: Trước răng sau vậy!”

Cưới nhau rồi Thái và Siu Ly vẫn mỗi người một nhiệm vụ. Trong một lần cõng hàng ra tuyến trước, tiểu đội Siu Ly bị pháo địch bắn trúng đội hình. Đơn vị đi tìm hai ngày ròng mới thấy Siu Ly nằm bất động dưới một thân cây bằng lăng đổ. Lúc đó cô đang mang bầu đứa con ba tháng...

*

Chiếc U-oát chở chúng tôi xuống Công ty cao su Bình Dương đang nghiêng ngả trên con đường lam nham những ổ voi, ổ gà loáng nước bất chợt khựng lại. Từ dải bụi hoang bên đường, hai bóng người bất chợt lao ra. Người đàn bà loạng choạng chạy trước, hai tay ôm khư khư cái bọc nilon trước bụng. Người đàn ông đuổi theo cố sức níu bà ta lại. Giằng co một lúc, bà nổi khùng vung tay đánh ông lia lịa, miệng gào lên những tiếng chói tai. Bà làm dữ bởi ông đang tìm cách giằng lấy cái bọc. Chịu rất nhiều cú đánh, cuối cùng người đàn ông cũng giằng được. Thì tóe loe ra nào phân bò, chổi cùn, tã lót trẻ con... Bà sững lại, đôi mắt lồi ra vì giận dữ. Nhìn quanh thấy một viên đá, bà liền nhào tới chụp lấy. Tôi mở cửa xe nhoài người ra, thét lên bảo ông tránh nhưng không kịp. Viên đá đã bay trúng mặt. Tôi vội chạy tới dìu ông đứng lên và kêu cậu lái xe lấy bông băng. May quá, chỉ chệch nửa đốt ngón tay thôi là vào mắt.

“Cái mụ điên ni thiệt là... Cảm ơn anh lắm, anh bộ đội.” Ông lập bập.

“À, mà anh...”

Chưa nói hết câu ông bỗng trố mắt nhìn tôi...

“Anh Thái! Anh Thái đấy ư Em Thuần đây mà!”

Tôi kêu lên và ôm chặt lấy ông.

“Là thằng Thuần, trời ơi… Vậy mà tau cứ tưởng mi chết rồi.” Ông đờ người ra nhìn tôi rồi khóc nấc lên, những giọt nước mắt đục nhờ lăn dài trên gò má sạm đen...

… Tiếng tắc kè đều đặn gõ vào đêm từng tiếng rời rạc. Ngoài vườn gió réo hu hú như có hàng nghìn thanh quất đang hoa tít trên không. Mưa quất lên mái tôn ràn rạt. Tiếng nước đổ nghe như ai đang nghiêng thùng mà dốc. Mùa mưa Tây Nguyên... Vậy là gần hai chục mùa mưa tôi mới gặp lại người bạn từng bao lần bên nhau sống chết...

Chia tay anh từ mùa mưa năm 1970, tôi bị cuốn vào cơn lốc chiến trận. Mãi tới năm 1979 mới có dịp về quê, hỏi thăm nhưng gia đình anh chẳng còn ai. Hàng xóm chỉ biết sau giải phóng anh có đưa vợ về ra mắt họ hàng rồi trở vào Tây Nguyên. Một lần duy nhất, đâu như vào năm 1978 mẹ mất, anh có về chịu tang rồi từ đó bặt vô âm tín... Cứ đinh ninh anh sẽ có một tổ ấm hạnh phúc trên miền đất đỏ này, có đâu ngờ...

Cậu biết không, hôm đoạn tuyệt với cô Côi, mình bí mật đi xem bói - Anh nở một nụ cười như mếu - Cha thầy bói phán đường thê tử của mình như ri: Số ông thì chỉ suốt đời làm tôi tớ cho vợ con thôi… Lúc đó mình cười nhạo, bây giờ ngẫm lại mà giật mình: Hóa ra ông ta nói đúng. Để mình kể cậu nghe nông nỗi ni thì có phải ông thầy nói đúng không...

Giải phóng được gần năm, mình đưa Siu Ly về quê với chiếc Honda 67. Bao năm chiến tranh làng xóm xác xơ tiêu điều, đường ngang ngõ tắt khác lạ khiến mình phải vừa đi vừa hỏi. Ấy thế mà cái tin “thằng Thái lấy vợ người rừng” chẳng biết từ đâu đã về trước rồi. Làng xóm đổ đến chật nhà. Mừng mình còn sống trở về cũng có nhưng phần nhiều là đến để xem Siu Ly. Từng cử chỉ, lời nói của Siu Ly đều được mọi ánh mắt dõi theo một cách chăm chú, đến khi thấy không có gì khác thường người đến mới thưa dần. Cả mẹ mình nữa, sau mấy ngày xét nét con dâu, cuối cùng đã bần thần ghé tai mình hỏi nhỏ: “Có thật nó là người dân tộc không mà tau thấy đâu có thua chi người Kinh. Nói năng mạnh dạn, khôn ngoan đã đành, đến việc ăn cũng biết dùng đũa hai đầu như bộ đội rứa?” Mình phì cười: “Mẹ ơi, cô ấy là dân tộc thiệt đó, nhưng mà đã được quân đội đào luyện rồi, cũng như con đây.” Mẹ mình lúc đó mới thở phào... Trong số bà con làng xóm đến thăm, người khiến mình xúc động không nói nên lời là cô Côi, cậu vẫn nhớ cô ấy chứ? Cuộc chia tay với mình ở giới tuyến chua xót, bẽ bàng là thế, vậy mà Côi còn ở với mẹ mình thêm hai năm nữa mới chịu đi lấy chồng. Giờ thì con đầu của Côi đã 15 tuổi. Cầm tay Siu Ly, cô ấy nghẹn ngào: “Cảnh tui với anh ấy căn nguyên cũng do đế quốc phong kiến mà ra cả.” Điều cô ấy nói khiến mình rưng rưng trong lòng. Dẫu sao thì cái kết “có hậu” của “người vợ” đã bao lẫn đẫm nước mắt vì mối tình đơn phương ấy cũng khiến mình vợi bớt nỗi lòng…

Siu Ly đã sẵn sàng ở lại quê chồng nhưng mình xin phép mẹ về làng với cô ấy. Thống nhất hòa bình rồi, với lại đất quê mình cậu biết... Thấy mình đưa Siu Ly về làng sống, họ hàng cô ấy rất mừng. Họ trao tài sản cha mẹ Siu Ly để lại cho vợ chồng mình gồm một chiếc ghè, hai cái chiêng và một chiếc cối giã gạo... Vợ chồng mình phải đi mót từng mảnh tôn, thùng phuy rỉ mang về dựng căn lều ở tạm… Vùng đất này bấy giờ còn hoang hóa lắm. Bốn phía nhìn ra chỉ thấy những dải rừng xác xơ, đét đóng. Con đường chạy qua trước nhà mình là một lối mòn, ngợp giữa hai bức tường dã quỳ vàng rực. Người làng Ner vẫn nguyên vẹn nếp sống cố hữu. Mỗi nóc nhà là một thế giới khép kín, chỉ mở ra khi trong làng có đám ma hay lễ cúng Yàng. Giữa cái thế giới ấy, mình cứ cảm giác cô đơn như một ốc đảo. Muốn thoát khỏi cảm giác nặng nề ấy, mình nghĩ tốt nhất là hãy lao vào công việc và cũng để cải biến cuộc sống nghèo khổ này. Để mở hướng làm ăn, mình quyết định đổi chiếc Honda 67 lấy sáu con bò về nuôi, mua tiêu giống về trồng. Sau ba năm thì mình đã làm được căn nhà này. Cuộc sống đã dễ thở, chỉ cần Siu Ly sinh cho mình đứa con nữa là...

Thái ngừng lời. Bàn tay anh bóp chặt chén rượu như cố nén xúc động. Im lặng một lúc thật lâu mới cất giọng khàn khàn kể tiếp:

Hẳn là cậu hãy còn nhớ cái lần Siu Ly suýt chết. Thân cây đổ đập vào gáy, hậu quả bây giờ mới phát. Thoạt đầu cô ấy cứ ngồi im một chỗ, hỏi gì cũng cười một cách ngây ngô. Được ba, bốn tháng như thế thì bắt đầu lẻn nhà ra đi. Không quậy phá ai nhưng suốt ngày cứ lang thang ngoài đường, nhặt nhạnh bất cứ thứ gì nhìn thấy. Này là giẻ rách, chổi cùn, chai lọ bể, phân bò khô… Cứ đầy vạt áo thì mang về đổ trước hiên rồi đi tiếp. Những thứ “của quý” ấy muốn vứt đi, mình phải chờ tối. Cô ấy mà nhìn thấy thế nào cũng lăn đùng ra đất, giãy giụa như thượng đồng. Rồi thì thay quần áo, tắm rửa cho cô ấy cũng phải dỗ dành. Cô ấy cười mình cũng phải cười, cô ấy chửi, mình cũng phải nhe răng cười. Những lúc đó trong mắt cô ấy, mình có vẻ là một kẻ đầy tớ dở người… Tuy vậy thì cũng chưa thấm vào đâu với cái khổ đi tìm cô ấy lạc đường. Chẳng thể nhớ bao lần cô ấy đi lang thang rồi quên mất đường về. Kỉ lục nhất là một lần cô ấy đi lạc, mình tìm ròng rã chín ngày liền mà không thấy. Lúc đó cứ nghĩ chắc là rơi xuống ao, xuống giếng đâu đó rồi thì nhận được tin báo của xã bên. Hóa ra là cô ấy bị công an xã bắt giam vì nghi là Fulro giả điên đi do thám. Tìm được cô ấy mình vừa cười vừa mếu, còn cô ấy thì trợn trừng nhìn mình như thể gặp kẻ thù...

Chắc cậu sẽ hỏi: Sao mình không chữa chạy cho cô ấy? - Anh đưa li rượu lên môi nhấp, mặt nhăn lại như nuốt phải một thứ gì cay đắng - Hồ tiêu hồi đó được giá lắm nhé. Còn đàn bò, đã có lúc lên đến hai mươi con. Không dừng lại ở đó, mình còn mở vườn ươm tiêu giống, cung cấp cho cả huyện... Ấy thế mà vào cửa trước đồng nào lại ra cửa sau đồng ấy. Hết bệnh viện Huế mấy bận lại vào Sài Gòn. Cạn thầy, cạn thuốc, thôi đành “có bệnh thì vái tứ phương”, mình đã hai lần mời thầy phù thuỷ về “bắt quyết trừ ma”. Vô hiệu... Tình hình địa phương lúc này lại khó khăn. Bộ máy lãnh đạo xã quá yếu, có ông viết chữ chưa thạo thì làm sao triển khai được nhiệm vụ của cấp trên. Vậy là đó đây bọn phản động Fulro bắt đầu ngóc đầu dậy. Huyện uỷ yêu cầu mình phải ra gánh chức Bí thư Đảng uỷ. Một bên là vợ điên dại, một bên là sinh kế nhưng nghĩ trách nhiệm của một đảng viên mình vẫn chấp hành. Những ngày ấy không hiểu sao mình lấy đâu ra sức lực đến thế. Xong việc xã là lao vào quần quật với rẫy vườn, chăm sóc vợ điên. Không ít lần đến trụ sở xã mặt mũi còn nguệch ngoạc bụi đất... Một hôm ông chú Siu Ly đến nhà, ái ngại chuyện nhà cửa bề bộn, nhếch nhác một lúc, ông chặc lưỡi bảo mình:

“Thái à, mày làm việc còn khổ hơn thằng ở ngày xưa đấy. Cứ thế này thì mày chết thôi. Mày chết thì con Siu Ly ai nuôi nó. Hay thế này: Mày nối dây với con Siu Kho đi. Nó vẫn nói là nó thương mày lắm đấy!”

Siu Kho là chị con dì của Siu Ly. Tục lệ của người Jrai, khi người đàn ông hay đàn bà chẳng may “nửa đường đứt gánh”, người ta sẽ “đền” cho một người trong dòng họ nhằm cố kết gia đình. Siu Kho hồi chiến tranh là cán bộ phụ nữ xã, tuổi giờ đã bốn mươi mà chưa bắt được chồng... Nói thật với cậu, từ lúc Siu Ly bị điên mình cũng nguội lạnh luôn chuyện vợ chồng, giờ tuổi cũng sắp sáu mươi, còn ham hố chi mấy cái chuyện đó nữa. Nhưng rồi ngẫm lời ông chú cũng có lí. Quả nhiên là Siu Kho rất thương mình. Với Siu Ly, Siu Kho còn là tình cảm ruột rà nữa. Ba người như ba ông đầu rau sẻ chia nồng ấm. Rồi Siu Kho có thai... Cậu xem, với mình còn niềm vui nào lớn hơn thế nữa, vậy mà...

Chén rượu từ đầu vẫn còn nguyên trước mặt anh. Cơn mưa dữ dằn vừa ngơi một chút lại tiếp diễn. Gió chẻ qua khe cửa rin rít. Đêm có lẽ đã rất khuya nhưng trong tôi không còn ý niệm thời gian. Chia sẻ nỗi buồn với anh lúc này không gì hơn là lặng im thấu hiểu. Dường như cảm nhận được ý nghĩ của tôi, anh khẽ gật đầu kể tiếp:

- Siu Kho trở dạ cũng vào một đêm bời bời mưa gió thế này. Trạm xá xã bấy giờ làm gì đã có. Biết làm sao khi lên bệnh viện phải gần ba chục cây số mà xe cộ, đường sá chẳng có? Thôi thì trước mắt hãy trông vào bà mụ làng xem sao đã... Đến ngày thứ ba thì Siu Kho lả đi. Đôn đáo khắp làng mình mới nhờ được bốn người cáng cô ấy đi bệnh viện. Nhưng đã muộn rồi. Siu Kho không kịp vào phòng cấp cứu!

Cái chết của Siu Kho khiến mình đau đớn như bị đứt lìa một cánh tay - Anh thở hắt như có một vật gì chẹn ngang đường thở - Suốt cả tháng trời đầu óc mình gần như không điều khiển được thân thể. Một cảm giác trống rỗng xâm chiếm hết mọi dòng suy nghĩ. Đến khi tĩnh trí lại thì cái ý nghĩ chán nản lại xoắn lấy đầu óc mình: Ta có còn gì để mất nữa đâu, sao không bỏ quách về quê cho nhẹ nợ? Tiếp thêm cho mình ý nghĩ ấy, ông chú Siu Ly một hôm đến chơi bảo: “Thái à, tao thấy mày cứ như người bị mất thần kinh. Hay mày cứ về quê mà ở, con Siu Ly để tao đưa nó lên tỉnh trả cho Nhà nước? Được lời ông chú, mình đã ba lần gói ghém quần áo ra đi, có lần xe sắp chạy rồi mà mình còn nhảy xuống quay về. Cậu biết vì sao không? Những lúc đó lời hứa năm xưa với Trung đoàn trưởng “trước răng sau vậy” lại bỗng văng vẳng bên tai, mình tự xấu hổ và thấy mình hèn…

… Gian bên bỗng có tiếng ú ở rồi tiếng đập chân xuống giường chan chát. Siu Ly đã thức dậy. Như một người mộng du, Siu Ly đến bên chồng nở một nụ cười ngây ngô nhìn khách. “Đến giường ngủ tiếp đi, ngoan nào!” Thái nói như dỗ trẻ con nhưng Siu Ly vẫn vùng vằng không chịu. Vậy là anh điềm nhiên bế thốc vợ đưa đến giường, mở phim hoạt hình cho xem.

Nếu số phận là không tránh được như lời ông thầy bói ngày xưa thì dẫu sao mình cũng còn may mắn hơn nhiều người - Anh nói khi trở lại bàn - Mình đã không “bỏ mạng sa trường”, dù vợ có điên dại thì cũng có một người để mà ôm ấp, dỗ dành phải không cậu?

Anh cười sằng sặc khiến chén rượu sánh cả ra ngoài…

… Tôi được đơn vị cử sang Lào để thành lập công ty cao su liên doanh với bạn. Trở lại Gia Lai sau bốn năm ở rừng cũng là lúc tôi nhận quyết định nghỉ hưu. Rời miền đất đã gắn bó quá nửa cuộc đời mà chưa biết lúc nào gặp lại, việc đầu tiên của tôi là đi thăm vợ chồng người bạn già bất hạnh... Hàng mít rậm rịt năm nào bị đốn trụi và con đường nhựa mới mở lém vào tận sân khiến tôi phải bần thần một lúc khá lâu. Nhưng rồi cuối cùng tôi cũng vào đúng ngõ nhờ căn nhà rường kiểu Quảng Trị độc nhất ở làng Ner này. Tôi cất tiếng gọi ba lần mà chẳng thấy ai thưa. Khoảng sân đầy lá rụng và vườn cây xơ xác khiến tôi linh tính có điều gì đó chẳng lành.

“Mày hỏi ai?” Tôi giật mình quay lại, trước mắt tôi là một người đàn ông Jrai lực lưỡng, tay cầm chiếc rựa dài. “Thằng Thái chết đã hai mùa rẫy rồi mà mày không biết à?” Ông nói như trách móc khi biết tôi là ai. Thì ra đây là ông Siu Meo, chú của Siu Ly. Tôi sững người. Dù đã linh tính mà vẫn không muốn tin cái tin tàn nhẫn ấy...

“Nó chết, con Siu Ly về ở với vợ chồng tao rồi - Ông vừa nói vừa nhồi thuốc vào tẩu - Mày có muốn ra thăm mả thằng Thái để tao dẫn đi.”

Làng Ner làm lễ bỏ mả chắc đã khá lâu. Vật dụng chia của cho người chết vung vãi, lăn lóc khắp nơi. Những bức tượng mồ đã mốc meo vì mưa nắng. Mộ Thái nằm ngoài cùng. Trên nấm đất đắp hình chữ nhật là chiếc đĩa nhựa đựng nắm cơm đã vữa và nhúm thuốc rê.

“Con Siu Ly nó cúng thằng Thái đó.” Ông Meo nói. Thấy tôi ngớ ra không hiểu, ông phân trần:

“Lẽ ra thì làng cũng làm lễ bỏ mả cho thằng Thái luôn rồi nhưng con Siu Ly không cho. Chẳng biết sao từ hôm thằng Thái chết, bệnh điên của con Siu Ly có vẻ bớt. Nó đã không đi lung tung nữa mà có lúc bỗng khôn ra. Nó bảo: Tui muốn cúng giỗ hàng năm cho anh Thái theo tục lệ người Kinh. Bỏ mả như người Jrai thì không còn ai nhớ anh ấy nữa...”

Thật buồn là không có một nén hương để thắp lên mộ cho anh, tôi đành đứng nghiêm chào, miệng lẩm nhẩm “Thái ơi, anh sống khôn thác thiêng thì phù hộ cho chị ấy hết bệnh để hương khói cho anh. Một mình anh nằm đây lạnh lẽo quá...”

Trong làn nước mắt nhạt nhòa, tôi như nghe văng vẳng bên tai tiếng cười của bạn: “Mình đã không bỏ mạng sa trường, dù vợ có điên dại thì cũng có một người để mà ôm ấp, dỗ dành...”

Vâng, một tình yêu đích thực mới là hạnh phúc đích thực, nói chi những gập ghềnh hay một cuộc đời dài, ngắn…

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ
Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Baovannghe.vn - Ngày 4/12, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công bố 72 thành phố của 46 quốc gia, trong đó có Thủ đô Hà Nội của Việt Nam được công nhận là thành viên Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu của UNESCO.
Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Baovannghe.vn - Trong phiên làm việc ngày 4/12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi).
Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Baovannnghe.vn - Giọng đọc và hậu kỳ: Hà Phương; Đồ họa: Thùy Dương; Biên tập: Phạm Thị Hà
Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn