Nhà văn Nguyên Hồng (1918-1982) không những là đại diện xuất sắc của nền văn học hiện thực tiến bộ trước Cách mạng Tháng Tám, mà còn là một trong những lớp người đầu tiên góp tay xây dựng nền văn học mới, nền văn học hiện thực Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngay từ những trang viết đầu tay của tiểu thuyết Bỉ vỏ đến Thù nhà nợ nước, tập đầu trong bộ ba tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế, ông đã đi trọn với người cùng khổ với thái độ cảm thông sâu sắc, qua mọi biến thiên của đời sống xã hội - một xã hội quằn quại, rên xiết, đau khổ nhung vượt lên tự khẳng định chính mình. Sự nghiệp của Nguyên Hồng đổ sô và đa dạng bao gồm nhiều thể loại: truyện ngắn, tiểu thuyết, hồi ký, thơ, tiểu luận... trải ra gần nửa thế kỷ với bao nhiêu biến động lịch sử, một văn phong tươi mới như sự sống, rất gần gũi với đời sống tinh thần của chúng ta. Con người nhà văn Nguyên Hồng giàu lòng vị tha, nhân hậu, sống giản dị và hòa hợp với đời sống nhân quần - một đời sống mà chính nhà văn cũng trải qua không ít cam go, cực nhọc, nhưng là chất men say sáng tạo của ông, thiếu đi đời sống ấy sẽ không thể có được những trang văn đầy xúc động ấm áp tình người
Kem bôi mặt dân dã
Cuối năm 1972, bố mẹ tôi ở Bắc Ninh, qua nhà văn Đỗ Chu, có mời nhà văn Nguyên Hồng, lúc đó đang thăm người con dâu dạy học ở trường cấp III Hàn Thuyên đến dự bữa cơm thân mật với gia đình. Tính ông vốn ngại những cuộc tiếp xúc như thế, nhất là những gia đình ông ít có quan hệ, nhưng nể anh Đỗ Chu, ông đành nhận lời. Không hiểu sao câu chuyện trong bữa cơm lại hướng sang chuyện trang điểm của phụ nữ. Nhà văn Nguyên Hồng có kể về "kem bôi mặt" qua kinh nghiệm dân gian: "Các cụ bà ngày xưa lúc xuân sắc cũng hay làm "đỏm" lắm nhé! Cách làm đỏm có khác bây giờ!"
Kem bôi mặt chỉ có mịn và "tôn" màu da lên thôi, chứ không như thứ kem chế bằng hóa chất, bôi nhiều làm da mặt xạm đi. Ông trầm ngâm một lúc rồi chỉ ra phía sau vườn: "Đơn giản thế này thôi! Các cụ bà giã nhỏ củ đậu ra rồi hòa với lòng trắng trứng gà dùng làm kem bôi mặt. Thật tuyệt, kem vừa giữ cho da mặt được mịn, vừa xoá đi cảm giác không thật của kem hóa chất". Chỉ một "chi tiết" ấy, tôi ngẫm thấy nhà văn Nguyên Hồng phải sống đằm với đời sống dân dã như thế nào mới có được những nhận xét tinh tế như thế.
"Gần mũi xa mồm"
Có một lần nhà văn Nguyên Hồng và tôi đi qua chợ Bắc Ninh. Giữa tiếng chí chát chặt thịt của dao thớt, giữa mùi thơm xào nấu thức ăn ngào ngạt của mấy quán ăn hàng chợ, chợt nghe thấy có tiếng cất lên the thé của một bà ngồi ở quầy hàng vải: "Mới sáng bảnh mắt ra, đứa nào xào nấu món gì thơm thế! Gần mũi xa mồm thế này chỉ làm khổ cái dạ dày và làm ruột gan rối tinh rối mù lên thôi". Đang đi, mắt nhà văn Nguyên Hồng chợt sáng lên. Ông vội ngồi thụp xuống bên hè phố, lấy cuốn sổ tay nhỏ sờn cả mép giấy ghi vội ghi vàng như sợ nó biến mất.
Sau đó lúc đi dọc đường, Nguyên Hồng vừa vân vê mấy sợi râu vừa giảng giải cho tôi cái "thần" của câu nói đó: "Cái con mẹ ấy khéo thế. Mùi thơm xào nấu nó chỉ được ngửi, chứ không được ăn. Nhưng cách nói ấy gợi quá. Diễn đạt cảm giác này không thể có cách nói nào hơn được đâu!". Thế mới biết, mỗi chi tiết trong đời sống dù nhỏ đến đâu đối với người viết đều là những hạt vàng quý giá.
Ông ấy là... nhà văn ư?
Mấy hôm nay, thầy giáo Mai có bạn dạy học ở Trường đại học Sư phạm Việt Bắc về chơi. Hai người đang ngồi nói chuyện thì thấy có một người dáng thấp bé cởi trần, râu lưa thưa, quần ống cao ống thấp đang đi ngoài sân. Thấy trong nhà có khách, ông già vội rẽ sang phía dốc rồi về nhà mình. Thầy Mai nói với bạn: "Nhà văn Nguyên Hồng về ở và sáng tác ở ấp này đó!". Ông khách cãi lại: "Anh trông nhầm thế nào ấy chứ! Tôi đã đọc văn Nguyên Hồng nhiều rồi. Tôi hình dung nhà văn khác cơ! Người viết văn sao lại ăn mặc quá tuềnh toàng vậy. Chắc lại có một lão nông xuống mượn anh cái gì đó thôi!". Biết không thể thuyết phục được bạn, thầy Mai đành im lặng.
Một lát sau, nhà văn Nguyên Hồng tươm tất trong bộ quần áo nâu bạc đi xuống nhà. Thầy Mai lại giới thiệu với ông bạn: "Nhà văn Nguyên Hồng, bạn hàng xóm của tôi đấy!". Nguyên Hồng xin lỗi khách và trao đổi với thầy Mai vài việc riêng. Xong ông đứng dậy, chắp tay trước ngực nói: "Xin phép hai thầy, vì mắc chút việc, tôi về...".
Ông khách thực sự ngạc nhiên... một nhà văn lớn như vậy sao lại giản dị đến không thể tưởng tượng nổi.
Tình huống khó xử
Hôm ấy, Nguyên Hồng xách nước đi từ dưới suối lên. Bỗng ông nghe ngoài ngõ xôn xao tiếng người cười nói. Chiếc xe com-măng-ca đỗ xịch dưới chân đồi. Mấy người khách da trắng cao lớn, ngực đeo máy ảnh bước vào. Thì ra khách nước ngoài của Hội Nhà văn Việt Nam từ Hà Nội lên thăm. Mấy ngày nay, vợ ông xuống huyện chăm sóc cô con dâu vừa ở cữ. Chợ xa, khách lại lên đột xuất. Thật bí, ông bảo cô con gái út làm thịt con ngan đang ấp và "ốp lếp" một chục quả trứng gà để tiếp khách. Đồng chí phiên dịch can ông: "Bác không lo, chúng tôi đã mang đồ nguội lên". Khách bày thức ăn chật chiếc chiếu trải giữa nhà. Suốt buổi, chủ khách hàn huyên đủ chuyện. Tuy vậy, Nguyên Hồng vẫn đứng ngồi không yên. Nhìn dáng điệu lúng túng của ông, ai tinh ý sẽ nhận ra tình thế khó xử của ông. Khách đã gỡ cho ông thế bí khi lên thăm nhà, riêng ông vẫn băn khoăn vì chưa chuẩn bị được chu đáo để đáp lại sự thịnh tình của khách từ xa lại.
Nói thế nào cũng không chịu nghe
Hồi chống Mỹ cứu nước, trước mỗi lần đi công tác nước ngoài. Bộ Tài chính có chuẩn bị cho Nguyên Hồng một bộ com-lê và vài thứ đồ dùng cá nhân khác. Một lần, nhà văn sau khi hoàn thành chuyến đi công tác Liên Xô về, các đồng chí Bộ Tài chính có nhã ý biếu ông bộ com-lê để ông thỉnh thoảng tiếp khách nước ngoài lên thăm nhà. Nguyên Hồng nói "thẳng thừng" với các đồng chí ấy một cách chân tình: "Tôi xin gửi lại bộ com-lê này để các đồng chí đi công tác nước ngoài những đợt sau còn dùng. Tôi ở vùng đất đỏ trung du bụi lầm, ít có dịp mặc. Vả lại, các cháu tôi suốt ngày quấn quýt ông. Nó bẩn, nó rách thì phí đi".
Nói đoạn, nhà văn Nguyên Hồng vào thay bộ quần áo nâu bạc xuềnh xoàng, xếp gọn ghẽ bộ com- lê, trao lại, rồi đòi về ấp Cầu Đen - Tân Yên (Hà Bắc), mặc dù các đồng chí ấy nói thế nào ông cũng không chịu nghe.
Về một vế đối
Nhà văn Nguyên Hồng đang ngồi dự họp ở Ty Văn hóa Vinh Phú thì có người đến đưa cho ông một mảnh giấy. Ông giở ra đọc. Thì ra, anh cán bộ văn hóa nọ biết nhà văn đang viết bộ tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế liền ra một vế đối:
- Buổi sáng lên núi Sáng, trông hoa vàng lại nhớ Hoàng Hoa
Vế đối này khá hóc hiểm, vừa gợi thời gian và không gian Buổi sáng - núi Sáng vừa gợi tên hoa, tên người hoa vàng - hoàng hoa, lại mở ra địa danh Hoàng Hoa Thám và nghĩa quân Yên Thế hoạt động ở vùng núi Sáng (Vĩnh Phú) trong nỗi hoài vọng mênh mang. Người ra vế đối đã khó, nhưng đối lại càng khó hơn. Xong buổi họp, Nguyên Hồng đến xin khất một dịp khác đối lại.
Sau đó, tình cờ một buổi chiều muộn, ông đạp xe qua Phồn Xương, bốn phía sương giăng mông lung. Tâm trí ông rưng rưng trước cảnh sắc núi rừng. Vế đối nảy ra trong óc. Nhà văn Nguyên Hồng vội về viết thư ngay cho anh cán bộ văn hóa nọ trong đó có vế đối:
- Đêm xương đến Phồn Xương, ngẫm sự thế càng yêu Yên Thế.
Vế đối này rất chỉnh về đối ý, khá chỉnh về đối lời nhưng quan trọng hơn là đã ký thác được nỗi niềm tâm sự của ông đối với con người và mảnh đất Yên Thế.
Tính bác vốn vậy rồi!
Ở cơ quan Hội Văn nghệ Hà Bắc vào một buổi sáng, nhà văn Nguyên Hồng xuềnh xoàng trong bộ quần áo nâu bạc đến nhận bản đánh máy cuốn Thù nhà nợ nước trong bộ ba tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế của ông viết về HoàngHoa Thám và nghĩa quân Yên Thế. Nhà văn Nguyên Hồng đọc xong chương đầu, sau một lúc im lặng, ngẩng lên, dáng vẻ bần thần, ông nheo mắt nói với cậu đánh máy: "Các ông làm ăn thế này thì gay quá! Mới có một chương thôi mà quá nhiều lỗi. Nhưng tôi thông cảm vì trong này có nhiều từ địa phương". Ông lật gấp các trang bản thảo: "Thôi thế này nhá: Hội in thế nào cũng được, kể cả trên giấy đen như giấy cuốn thuốc lào cũng được. Nhưng bản đánh máy, mình phải tự tay sửa lỗi. Và bao giờ có bản mo-rát chuyển cho mình đọc lại. Các ông nên tôn trọng bạn đọc. Nghề này mà để người ta nghĩ mình làm ăn ẩu thì thật chẳng ra sao".
Và trong gần một tháng, nhà văn Nguyên Hồng "xoay trần" ra đọc bản đánh máy ở cơ quan Hội Văn nghệ Hà Bắc vào những ngày nóng nhất trong năm. Sau khi sách in ra, ông ngồi một mình trong phòng nâng niu, ngắm nghía cuốn sách trong tay với vẻ hài lòng, ông thưởng rượu cho họa sĩ trình bày bìa, ma-két và người sửa bản in. Chén rượu đầy nhất, ông trao cho cậu đánh máy: "Mọi sự cháu bỏ quá cho bác. Tính bác nó vốn vậy rồi mà!".
Câu đùa của tác giả Bỉ vỏ
Nhà văn Nguyên Hồng rất hay đùa, khiến bất cứ ai khi tiếp xúc với ông đều cảm thấy gần gũi. Nhân hội nghị những người viết văn trẻ lần thứ hai, vào một buổi tối, tại trụ sở Hội Nhà văn Việt Nam có tổ chức cuộc gặp mặt giữa các thế hệ nhà văn. Không khí tiếp xúc vui vẻ, ấm cúng, bớt trang nghiêm như trên diễn đàn hội nghị. Không hiểu sao có người nói sang chuyện Prômêtê lấy cắp lửa của thần Dớt đem cho loài người bị xiềng dưới chân núi cho nắng trời thiêu đốt và con diều hâu ban ngày lao xuống móc tim (hình phạt của thần Dớt trong thần thoại Hy Lạp). Ai nấy đắm chìm trong không khí thương cảm thì nghe thấy có tiếng người cất lên oang oang: "- Cẩn thận. Con diều hâu có móc tim đâu mà nó "móc tiền" đấy!"
Mọi người sửng sốt nhìn ra sân. Hoá ra, cái dáng người thấp bé, chòm râu vểnh ngược, ôm khư khư cái cặp da cũ sờn đang đi vào là nhà văn Nguyên Hồng, tác giả của cuốn tiểu thuyết Bỉ vỏ nổi tiếng. Tất cả được mẻ cười rộ lên vui vẻ.
"Lao động"... lưỡi
Nhà văn Nguyên Hồng rất ghét những kẻ cơ hội, bợ đỡ và vụ lợi, những kẻ không sống bằng lao động của chính mình. Ông thường nói với anh em viết trẻ chúng tôi: "Trên đời có hai loại lao động: lao động trí óc và lao động chân tay. Các loại lao động trên là đương nhiên rồi. Không hiểu sao bây giờ lại sinh ra loại người sống bằng "lao động"... lưỡi. Tạo hóa kể cũng lạ thật, cái thứ người này ở đâu cũng có, chẳng có tài cán gì cả, mà ký sinh đủ kiểu len lách, bợ đỡ, nịnh hót, chẳng phải hao tổn máu tim và đổ mồ hôi sôi nước mắt, uốn lưỡi cho dẻo là... là... ". Nguyên Hồng nheo mắt cười cười, cặp mắt sắc nhọn ánh lên tinh nhanh: "... là lên như diều. Mà lại sống đàng hoàng hơn những người khác nữa mới lạ chứ!". Ông lắc đầu. "Đến nước ấy thì khó quá, gay quá, cực nhục quá. Thật chẳng còn ra làm sao nữa!".
Nguyên Hồng bỏ ra đứng ngoài cửa hồi lâu. Mãi sau mới thấy ông vào lại nhà, vẻ mặt nom cứ đăm chiêu thế nào ấy.
Cái tên nhỏ của nhà văn lớn
Cách đây hơn 30 năm họa sĩ vẽ bìa cho cuốn sách đầu trong bộ tiểu thuyết Núi rừng Yên Thế do Hội Văn nghệ Hà Bắc xuất bản. Khi họa sĩ đem mẫu bìa đến, nhà văn Nguyên Hồng rất cảm động: toàn hộ bìa được bố cục bằng mảng chữ được lặp đi lặp lại, màu sắc nhẹ nhàng, chắc khoẻ. Ông đặt mẫu bìa ngay ngắn trên bàn vừa nói chuyện, vừa ngắm nghía với vẻ hài lòng. Có một chi tiết mà họa sĩ nhớ mãi khi chỉ tên mình trong bìa sách, ông nói nhỏ bằng giọng nói lắp chân tình: "Này... này họa sĩ, trước khi đưa in, cháu nhớ giúp bác bố trí cái chữ này... nho nhỏ lại nhé, để to... bác thấy chướng quá". Nói xong ông cười. Hôm đó, họa sĩ thấy trong mắt ông có đọng giọt nước mắt vì sung sướng.
Nhuận bút ấy sử dụng sao cho ý nghĩa?
Nhà giáo ưu tú Khuất Chi Mai (nguyên là hiệu trưởng phòng PTCS xã Quang Tiến - huyện Tân Yên - Hà Bắc) nay là trường PTCS Nguyên Hồng, cho tôi biết: "Hồi sinh thời, nhà văn Nguyên Hồng có đưa cho thầy số tiền nhuận bút cuốn sách vừa in xong tặng nhà trường mà thầy cứ băn khoăn mãi. Hai người vốn là hàng xóm nên chẳng còn lạ gì gia cảnh của nhau. Nhà văn có ấm trà ngon cũng bảo con mời thầy sang chơi. Khi đi xa về, có chuyện gì nhà văn cũng kể với thầy. Tuy chênh lệch về tuổi đời nhưng Nguyên Hồng coi thầy như bạn tâm giao. Thời gian này, nhà văn rất eo hẹp về kinh tế gia đình - thầy Mai bảo thế - nhà neo bấn, các con đi học xa. Chẳng hiểu nhuận bút cuốn Sóng gầm được bao nhiêu, mà sử dụng số tiền vào nhà trường sao cho có ý nghĩa. Thật khó quá!". Nghĩ đi nghĩ lại, thầy Mai cất công đạp xe xuống tận xí nghiệp ngói bến Tuần đặt vấn để mua ngói cho nhà trường. Nghe thầy Mai trình bày và khi biết số tiền thầy Mai mang theo là nhuận bút của nhà văn Nguyên Hồng, các đồng chí trong Ban giám đốc xí nghiệp đá ưu tiên cho nhà trường mua ngói loại 1, giá cung cấp. Hai phòng học đầu của trường PTCS xã Quang Tiến được lợp ngói. Cảm kích trước tấm lòng của nhà văn Nguyên Hồng, cán bộ và nhân dân xã Quang Tiến đã ngói hóa toàn bộ các lớp học của nhà trường chỉ sau một thời gian ngắn.
Ước nguyện chưa thành
Nam Bộ là nỗi day dứt trong tâm khảm nhà văn Nguyên Hồng, chả thế ông đã từng viết bài thơ Cửu Long giang ta ơi với bao nhiêu hoài vọng nung nấu. Sau năm 1975, bạn bè thường nhắc ông nên đi Nam Bộ khi nước nhà đã thông nhất. Nguyên Hồng cứ cười khà khà: "Ừ, cũng phải đi một chuyến chứ. Nhưng bận quá, tiểu thuyết về quan Đề Thám và nghĩa quân Yên Thế chưa "tha" mình, khổ thế; xong bộ ba này thì quyết đi thôi, không thể nấn ná mãi được!". Và ông ở liền trên ấp Cầu Đen, tắm mình trong không khí sử thi không dứt ra được, có khi cả tháng cũng không về cơ quan Hội Nhà văn Việt Nam ở Hà Nội. Và Nguyên Hồng đã vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất ngổn ngang những dự định chưa thành, tận dâng tận hiến cho sứ mệnh nghệ thuật - đó là lẽ sống suốt đời ông.
Có lẽ lúc sinh thời, Nguyên Hồng cũng không ngờ rằng: một đường phố ở Sài Gòn (nay là thành phố Hồ chí Minh) được mang tên ông như ghi nhận một đời sáng tạo của nhà văn, mặc dù ông lại chưa một lần đặt chân đến mảnh đất ông từng yêu mến và khát khao đến đó.
Nguồn Văn nghệ sô 44/2018