Diễn đàn lý luận

Nguyễn Thị Kim Nhung: Phía trung du dần sáng

Phùng Gia Thế
Tác phẩm và dư luận 09:10 | 11/10/2025
Baovannghe.vn - Có cảm giác Nguyễn Thị Kim Nhung là người dè dặt, kín đáo trong giao tiếp, nhất là trong các cuộc đãi đằng văn nghệ. Ở nhà số 4, Nhung thuộc nhóm “ẩn” mình.
aa
Nguyễn Thị Kim Nhung: Phía trung du dần sáng

Bìa cuốn Dần sáng

- cứ tưởng buông là nhẹ

tiếng rơi xót gió mặt hồ

- sung một đời buông quả

không chạm nổi đáy ao

Chị cũng hiếm khi xuất hiện tại các sự kiện văn chương hay đăng đàn trao đổi, bàn luận về các vấn đề văn học. Điều này không phải sự cố tình riêng khác, mà có lẽ là tạng của Nhung. Khác với các cây bút cùng thế hệ, làm văn, làm báo, làm thêm các việc khác nhau, Nhung là một “nhà thơ thuần khiết”. Bạn viết ở nhiều thể loại khác nhau để rộng đường, đằng này, Nhung dường như chỉ có thơ. Với thơ, Nhung cũng không vồ vập đăng in, cứ “chầm chậm tới mình”. Chầm chậm tới mình nhưng “dần sáng”, đó là điều tôi cảm nhận được ở Nhung.

Theo tôi, có ba thứ để Nhung không thể (hay không được phép) “viết dễ”: 1) học trường đào tạo viết văn thì phải viết thế nào; 2) bối cảnh thơ đương đại đang lạm phát (cả tào lao) đủ kiểu và 3) công việc hàng ngày của một biên tập viên thơ phải tiếp xúc với rất nhiều bản thảo. Thế nên, viết, với Nhung không chỉ là công việc, là thôi thúc, mà còn là áp lực sáng tạo. Để giải tỏa áp lực này, thay vì tăng tốc, Nhung viết chậm. Đọc Nguyễn Thị Kim Nhung, có thể nhận ra, một lối viết nhất quán trong thơ chị: nén, kiệmgợi. Thơ Nhung xa cách với kiểu trữ tình cảm thương, vốn phổ biến ở nhà thơ nữ (đổ vỡ, đau khổ, đa đoan…). Thơ chị cũng không nhắm tới những chuyện thế sự nhân sinh to tát, mà là một kiểu trữ tình đời tư đặc biệt. Tôi gọi đó là “thơ của tiếng nói thầm”, “cho những lặng im”, cho những khoảng trống hoang vu. Từ lâu, chị đã nhủ mình: Nước chết lịm sau nụ cười bệ rạc/ tỉnh ra đã hóa cũ càng/ những con chữ ồn ào trên giá/ rêu rao gì mà rỗng rễnh đời ta

Thơ Nhung có nhiều sáng tạo về ngôn từ, thi ảnh, song không thuộc thể loại đánh đố, càng không phải kiểu thơ để đọc diễn cảm trơn tru. Nhung phòng vệ từ xa sự xáo mòn và rỗng nghĩa. Ý thức thế, nên Nhung không phung phí ngôn từ mà luôn tiết chế thường trực, gạn lọc khắt khe, đôi khi chạm gần tối giản: phố thưa nhòe ô cửa/ biết ta không đến/ khép niềm đợi mong; trả lại Tuy Hòa/ cơn mưa không ai nhìn thấy/ chưa tạnh trong tôi (mưa Tuy Hòa).

Nhưng nếu chỉ có thế, Nhung lấy gì để kiến tạo những giấc mơ thơ? Thì đây, Nhung rút tỉa từ thơ từ những giấc mơ ẩn hiện: ký ức, tuổi thơ, suy tưởng thời gian, niềm đau sâu kín, những tháng năm xa xăm gõ cửa: hối hả cả năm/ chậm lại một ngày/ mẹ thong thả sảy sàng hiên vắng (…) tiếng những người đi chợ/ rụng dần đằng dốc xa/ song thưa chừng như sốt ruột (…) mùa xuân còn ở đó/ vọng tiếng cha chẻ củi sau nhà (xuân vắng); bao nhiêu huyên náo ngoài kia/ không làm đầy những bình gốm rỗng/ mùa xuân từ đó tượng hình (…) phố đông không vì mua bán/ ai hay gốm cũng tưng bừng/ khoác chiếc áo màu châu thổ/ rỗng lòng đợi xuân” (phố gốm)…

Nhung viết về nhiều địa danh, nơi chốn (Huế, Tuy Hòa, Sơn Tây, Hà Nội, phố nhà binh, phố Gầm Cầu…) nhưng dường như luôn có một trung du nhớ thương, chập chờn trong tâm cảm. Cái chốn quê Cẩm Khê (Phú Thọ) nghèo và bình yên ấy luôn chực khởi lên như một “mã nguồn”, “mã gốc” của thơ: năm tháng đứng bên bờ giậu cũ/ trái mâm xôi hồi hộp đỏ sang chiều. Để rồi, đọc thơ Nhung, thấy ngập tràn những hình ảnh, lời ăn tiếng nói thân quen với “làng đồi”, “xóm núi”, “cây đắng cảy”, “ké”, “hàng rào dứa dại”, “những người đi đốn củi”, “khảm khắc nét đồi”, “bữa cơm rau đắng”; “thôi đường” “gò đồi”, “gió või mùa”, “dém màn”… Một trung du hoang vu miền nhớ. Dốc đồi. Tiếng gà trưa. Bộ quần áo Tết. Mùa xuân lấm chấm hoa xoan. Gió triền sông. Những độ mưa buồn... Như một tiếng gọi từ vô thức, từ tâm cảm của một bé gái, đến khi thành thiếu phụ, giấc mơ trung du vẫn chập chờn trong tâm tưởng nhà thơ, như một tiếng gọi thảng thốt, mơ hồ: mơ thấy mùa quả vắng/ sào tre khua chân mây/ rơi tiếng cười bầy trẻ/ núi đồi kề nhau vẫn lẻ/ đỉnh cao nào có thể chạm nhau/ mây trắng phơi một nỗi (làng đồi); một đứa trẻ từ nhiều năm trước/ vụng về tạm biệt khu vườn/ gai dứa dại cứa vào nỗi nhớ/ tôi trở về nghe tiếng khóc bé con (khu vườn bí mật); Đã lâu ta không về hái/ cuống tay ké nở rưng rưng/ đàn bò kéo chiều xuống núi/ mắt người đăm đắm vào đêm/ xóm núi trôi trong đêm trăng/ thiếu nữ nghe ai vừa gọi/ đồi núi dong buồm cỏ cây nheo vẫy/ giấc mơ nào cũng ra khơi (gửi về xóm núi)...

Và trong lòng trung du nhớ thương, là hình ảnh bà, là hình cha, dáng mẹ, vừa thân thương, vừa gợi ra chút thoáng day dứt, ăn năn: những gì tôi nhớ được/ về mảnh trời trong mơ/ vẫn không thôi tự sáng/ bà trở về gò Trám/ nắng tháng tám chéo vạt áo ghi/ đàn bò tự trổ lối đi/ tôi đánh mất điều phấp phỏng” (chớp mắt chiều); mỗi ngày con lại giống cha hơn/ từ điều con từng chối bỏ (…) số phận thử cha bằng nước sôi lửa bỏng/ số phận thử con trong băng lạnh lòng người/ cha nóng nảy nửa đời rồi im lặng/ con ấm dần từ che chở bóng cha (bóng cha); tuổi thơ xa chưa/ đêm nào mẹ cũng ngồi nhóm lửa/ thắp điều bây giờ mới tỏ (…) mẹ như cây vỗ từng niềm quả/ ngọt lành về phía người xa (làm mẹ)…

Có thể gọi thơ Nhung là kiểu thơ suy tưởng - trữ tình. Chị tìm cô đọng để gợi, kỳ công nén để bật nẩy, ngân rung. Đó là lí do, thơ Nhung hay mà không dễ đọc: núi không cần ai gục ngã/ để mình đứng lên/ vẫn dịu dàng nâng đỡ cỏ cây/ hoa nở vì lòng không vướng bận (bóng tối); bạn hẹn về nơi đó/ khi mùa xuân dòng nước trong hơn/ xa lâu ngày lòng như suối cạn (suối nhỏ); trái tim làm bằng nước mắt/ nên chẳng bao giờ thôi long lanh/ một giọt nước đủ gọi về biển cả/ người tự bớt mình cho ta lớn lên (mai); trăng xa như chiếc thuyền trong tranh vẽ/ bão đánh tan vẫn còn lại dáng nằm/ đắm mình rồi có hiểu được mênh mông (niềm tin); đêm rộng thế nhưng không chứa được/ con đường như kẻ không nhà/ lầm lũi đợi tiếng ngày huyên náo (vẽ đêm).

Thơ Kim Nhung rất chú ý thời gian. Có thể nói, cảm thức thời gian là một điểm nhấn đặc biệt trong thơ chị. Không phải ngẫu nhiên, chị sử dụng nhiều nhan đề gợi dẫn thời gian: “dần sáng”, “tháng tư trở lại”, “hè muộn”, “bóng tối”… Nhung có nhiều câu thơ tài hoa về khoảnh khắc thời gian, thời gian tâm lí và những vỡ rạn nhân sinh: thời gian như gương soi/ thấy tất cả nhưng không lưu bóng/ ta rời đi mang theo chính mình/ giã từ ấu thơ/ lúc khói chiều chưa kịp tắt/ hạt thóc sót lại trong bát cơm trắng/ thành chiếc thuyền đơn độc qua sông/ (…) tháng tư sót lại ánh nhìn/ vẫn còn ấm/ trên màu nắng cũ (tháng tư trở lại); đã dỗ nín những mùa đông lầm lụi/ thế mà giờ oà khóc mưa xuân/ mỗi ngày ta gặp nhiều hơn/ nhưng trong lòng khuyết đi vài chỗ (vỡ lòng)…

Nguyễn Thị Kim Nhung là cây bút sắc nét của thế hệ nhà thơ 9x. Không phải số lượng, mà sự tinh tế, dồn nén của cảm xúc, sự chắt lọc ngôn từ và chiều sâu suy tưởng đã làm nên dấu ấn đặc biệt trong phong cách thơ chị. Hầu hết các bài thơ của Nhung đều là thơ tự do, kiệm mà không cụt, phóng khoáng nhưng không dễ dãi, vừa đủ hay. Nhung đặc biệt giỏi lắng nghe và diễn tả những thanh âm mơ hồ, khoảng lặng, những rạn vỡ thầm thì của thời gian. Chị đích thực là một nhà thơ, ngay cả khi viết ít.

Tôn sư trọng đạo trong thời đại

Tôn sư trọng đạo trong thời đại

Baovannghe.vn - Truyền thống “Tôn sư trọng đạo” đã góp phần nuôi dưỡng và vun đắp đạo lý làm người của bao thế hệ người Việt. Giữa thời đại số, khi chỉ cần một cú chạm màn hình là đã có thể tiếp cận kho tri thức khổng lồ, khi trí tuệ nhân tạo hiện diện trong từng lớp học, giảng đường… vai trò người thầy dường như bị thử thách giữa thời đại số.
Naguib Mahfouz nhà văn lớn của văn học Ả Rập

Naguib Mahfouz nhà văn lớn của văn học Ả Rập

Baovannghe.vn - Cho đến nay, Naguib Mahfouz là nhà văn Ả Rập duy nhất được trao giải Nobel văn chương. Ông nhận giải này năm 1988.
Chùm thơ của nhà thơ Mỹ yêu Truyện Kiều

Chùm thơ của nhà thơ Mỹ yêu Truyện Kiều

Baovannghe.vn - Nhà thơ Paul Hoover, sinh 1946 ở Virginia, hiện là Giáo sư, quyền trưởng khoa Sáng Tác Văn Học (Creative Writing Department) Đại học California tại San Francisco, chủ biên tạp chí thơ New American Writing.
Một chuyện gặp trên đường

Một chuyện gặp trên đường

Baovannghe.vn - Chiều đã ngả trên chóp núi phía Tây, mặt trời đỏ ối còn cố xòe những dải nắng như rẩy lửa trên mặt đường, đó đây đã có những ngọn gió mát lành làm dịu lại không gian một chiều hè sót lại. Con đường như tập nập hơn, và người ta cũng như tranh thủ chút dịu mát để giải quyết cho xong công việc của một ngày.
Phế tích nắng - Thơ Đỗ Thượng Thế

Phế tích nắng - Thơ Đỗ Thượng Thế

Baovannghe.vn- Nhặt phiến lá khô tàn/ đời cay tràn mắt