Diễn đàn lý luận

Nhà thơ Bùi Văn Dung - Tròn nửa thế kỷ "đào kênh", "gửi nắng"

Đỗ Ngọc Dũng
Chân dung văn học
10:32 | 07/03/2025
Baovannghe.vn - Thơ Bùi Văn Dung mộc mạc, dung dị mà khoáng đạt, trữ tình mà da diết sâu lắng, luôn lấp lánh một tâm hồn thi sĩ tài hoa, đầy nhạy cảm, đầy hồn nhiên và trẻ trung.
aa

Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ

Vô duyên đối diện bất tương phùng.

(Cổ nhân nói)

Một buổi sáng chủ nhật giữa hè 2023, sau vài lần hò hẹn, họa sĩ Quỳnh Thơm điện thoại báo hôm nay em lên thăm anh. Chả là trước đó, tôi mới trải qua cuộc phẫu thuật sinh tử. Thơm còn nói: "Em mời và đón cả nhà thơ Bùi Văn Dung cùng nghệ sĩ Trần Tuấn lên thăm anh luôn". Trần Tuấn là chỗ thân tình, anh em cùng cộng tác với nhau nhiều, nhất là khi tôi còn làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Phú Thọ. Dù Tuấn đã chuyển về Vĩnh Phúc sau khi chia tách tỉnh, nhưng mỗi dịp tổ chức Ngày Thơ Việt Nam, tôi thường mời Tuấn lên trình diễn bài thơ thần của Lý Thường Kiệt. Với tôi, Trần Tuấn là nghệ sĩ diễn xuất và ngâm bài thơ này thành công nhất Việt Nam. Còn nhà thơ Bùi Văn Dung thì tôi quá biết ông, ông nổi tiếng với một số ca khúc phổ nhạc tiêu biểu là Gửi nắng cho emCon kênh ta đào, tuy chưa gặp ông lần nào. Chuông điện thoại rung lên, Quỳnh Thơm cho biết xe đã đến cầu Việt Trì, rồi chuyển máy bảo tôi nói chuyện với nhà thơ Bùi Văn Dung. Một giọng nói trong trẻo, sang sảng đầy chân tình gần gũi, làm người nghe rất thiện cảm. Ít phút sau, mọi người đã có mặt ở nhà tôi, cùng với bó hoa tươi và quà thăm người ốm, khiến tôi rất cảm động.

Nhà thơ Bùi Văn Dung - Tròn nửa thế kỷ "đào kênh", "gửi nắng"
Nhạc sĩ Phạm Tuyên và nhà thơ Bùi Văn Dung - mục nho/giấy giang - Tranh: họa sĩ Đỗ Ngọc Dũng

Buổi trưa ấy, họa sĩ Nguyễn Đình Ánh, bạn học cùng trường với Quỳnh Thơm mời thân mẫu là nhà thơ Nguyễn Thị Lan Thanh, cùng chúng tôi dự bữa cơm thân mật tại nhà hàng Tây Bắc. Cũng từ đấy như một sự nhân duyên, giữa chúng tôi có thêm những người bạn mới: Đỗ Thị Hồng Đà, Kim Định, Nguyễn Sản, Lan Anh, Ngọc Mai, Đỗ Nguyên Thương, Thanh Mai, Phan Mạnh Hùng, Quản Sơn, Lan Lê, Nguyễn Nghĩa, Quỳnh Hoa, Sơn Phương Hoa, Lệ Thủy... Chúng tôi thường có những cuộc gặp mặt, giao lưu, thơ nhạc, dự triển lãm tranh Quỳnh Thơm... Rồi thi thoảng cùng nhau thăm thú chỗ này, chỗ kia: khi thăm viếng Đền Hai Bà Trưng, lúc ghé Việt Phủ Thành Chương, hay không gian nghệ thuật NSND Vương Duy Biên, cũng có lúc ở Vĩnh Tường, lúc lại trên Việt Trì... Tình văn nghệ sĩ thật nồng ấm, trân quý. Tôi quý trọng Bùi Văn Dung bởi sự chân tình, giản dị mộc mạc dễ gần, dễ mến. Luôn nhận thấy ở ông sự trẻ trung, hồn nhiên, yêu đời, yêu cái đẹp, và cả những câu thơ mộc mạc tài hoa của ông để lại cho đời, bởi sự đọc nhiều, hiểu rộng của ông...

Với dáng người nhỏ gọn phúc hậu, tính cách hồn nhiên vui nhộn, hóm hỉnh, dù đã ở tuổi ngoài bát tuần, nhưng ông rất trẻ trung nhanh nhẹn. Trong những cuộc gặp gỡ trò chuyện cùng nhà thơ - cựu chiến binh Bùi Văn Dung chúng tôi được biết: Năm 1956, lúc đó mới 14 tuổi, ông được tuyển sang Tiệp Khắc, cùng 100 học sinh là con cán bộ lão thành để học văn hóa, tạo nguồn cán bộ tương lai cho đất nước. Nhưng thật không may, đến năm 1959 khi đang học lớp 6, Tiệp Khắc xảy ra chính biến "xét lại". Bùi Văn Dung cùng 100 học sinh Việt Nam phải về nước, rồi học tại trường Miền Nam ở Chương Mỹ (Hà Nội) gần một năm, đến năm 1961 trở về quê nhà huyện Vĩnh Tường (Vĩnh Phúc) học tiếp hết lớp 7. Năm 1962, ông tình nguyện nhập ngũ rồi trở thành lính pháo binh trẻ tuổi của Trung đoàn 208.

Chiến sĩ - thi sĩ có duyên với nhạc sĩ

Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, những người lính như ông chưa thể chuyển ra Bắc mà vẫn tiếp tục ở lại Sài Gòn làm nhiệm vụ đảm bảo an ninh và phát triển kinh tế.

Vào buổi trưa ngày 17/12/1975, khi ấy trời Sài Gòn nắng gắt, chàng lính trẻ Bùi Văn Dung cùng đồng đội đang quần đùi, áo may ô ăn cơm trưa, chợt nghe bản tin dự báo thời tiết trên đài, thấy miền trung du Bắc Bộ đúng quê hương mình bị ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, nhiệt độ xuống thấp, rét đậm, rét hại. Ông nhớ đến người vợ tần tảo ở nhà, chắc giờ này vẫn ngoài đồng cày cấy, hình dung ra cái rét tê tái của mùa đông miền Bắc. Hai vợ chồng lấy nhau năm 1965 thì năm 1967 ông vào chiến trường miền Trung rồi miền Nam và chưa một lần được về thăm nhà. Bần thần nhớ vợ, thương vợ, hình ảnh người vợ hiền nơi hậu phương quê nhà cứ hiển hiện trong đầu, và như để tâm sự với vợ, các câu thơ chân tình mộc mạc cứ dần dần bật ra:

Anh ở trong này chưa thấy mùa đông

Nắng vẫn đỏ mận hồng đào cuối vụ

Trời Sài Gòn xanh cao như quyến rũ

Thật diệu kỳ là mùa đông phương Nam

Muốn gửi ra em một chút nắng vàng.

Nên cứ muốn chia nắng đều ra ngoài ấy - Đây không chỉ là tình yêu cá nhân, mà còn là sự đồng cảm với những con người lao động ở miền Bắc, nơi khí hậu khắc nghiệt của mùa đông.

Có tình thương tha thiết của trong này - Thể hiện tình cảm, hướng tới sự chia sẻ giữa hai miền Nam - Bắc. Không chỉ dành cho "em" mà còn dành cho cả quê hương, đồng bào...

Nhà thơ Bùi Văn Dung - Tròn nửa thế kỷ "đào kênh", "gửi nắng"
Nhà thơ Bùi Văn Dung tặng tập thơ cho họa sĩ Đỗ Ngọc Dũng tại Vọng Ngư Lâu, năm 2024

Nhà thơ Bùi Văn Dung từng kể cho chúng tôi như thế: Buổi trưa hôm đó ông không ngủ, đến giờ làm việc lên Ban Chỉ huy gọi điện thoại cho một nhà báo quen biết ở Báo Sài Gòn giải phóng nói rằng: Ông vừa nghĩ ra một bài thơ mà ông rất tâm đắc. Nhà báo bảo ông đọc cho nghe qua điện thoại, nghe xong nhà báo nói ông đọc lại để chép và cho báo đăng ngay hôm sau. Bài thơ Gửi nắng cho em được ra đời như thế.

Dù rất phấn khích về bài thơ được đăng báo, trong đó có chứa chất tình cảm riêng tư của hai vợ chồng, nhưng công việc bộn bề, của người lính chiến sau giải phóng ông cũng quên dần bài thơ. Tầm một năm sau (1976), một buổi chiều khi đang ngồi uống trà cùng mấy chiến sĩ ở gần Bến cảng Nhà Rồng. Bỗng một người bạn vỗ vai ông và nói: "Này, bài thơ của cậu được phổ nhạc đang hát trên loa truyền thanh kia kìa". Ông vừa ngạc nhiên, vừa lắng nghe và tỏ nỗi vui mừng khôn xiết, không ngờ bài thơ của mình lại được nhạc sĩ nổi tiếng Phạm Tuyên phổ nhạc, thành bài hát và được phát sóng trên Đài Tiếng nói Việt Nam.

Ngày Sài Gòn mới giải phóng, nhạc sĩ Phạm Tuyên cũng đã đến với thành phố này, nhạc sĩ rất xúc động trước hình ảnh của những người bà con sum họp, không khí cởi mở, hồ hởi, đặc biệt là những người chiến sĩ trẻ, quê Bắc đang hối hả làm nhiệm vụ... Từ nỗi xúc cảm ấy, nhạc sĩ ấn tượng mạnh với bài thơ in trên báo Sài Gòn giải phóng ngày ấy:

Anh ở trong này không có mùa đông

Nắng vẫn đỏ, mận hồng đào cuối vụ.

Người nhạc sĩ tài hoa ngước nhìn thành phố, đúng là Sài Gòn không có mùa đông, bầu trời xanh cao vời vợi, rực nắng vàng tươi; nhìn gương mặt những người lính trẻ hân hoan nụ cười của người chiến thắng đi giữa thành phố nhưng trong họ luôn hướng về những người thân yêu nơi quê nhà miền Bắc đang mùa giá rét.

Thương cái rét của thợ cày thợ cấy

Nên vẫn muốn chia nắng đều cho ngoài ấy

Có tình thương tha thiết ở trong này

Gửi nắng về sưởi ấm những bàn tay...

Sinh ra từ vùng quê Bắc Bộ, thấu hiểu và từng trải qua công việc đồng áng, cảm thông nỗi vất vả của những người phụ nữ, người mẹ, người vợ... nhà thơ đã xúc cảm bật ra những vần thơ bình dị mà tài hoa, sâu sắc như thế:

Anh hiểu sức vươn của những cành đào

Qua gió rét vẫn đỏ hoa ngày Tết

Như cây thông vững vàng trong gió rét

Em hãy làm cây thông xanh nghe em.

Hình ảnh cành đàocây thông được tác giả khéo léo đưa vào để biểu tượng hóa sức mạnh của "em" và con người miền Bắc. Cành đào vượt qua giá rét để đỏ hoa ngày Tết. Cây thông vững vàng trong giá rét nói lên sự bền bỉ. Lời nhắc nhủ Em hãy làm cây thông xanh nghe em vừa là lời động viên, vừa là niềm tin của "anh" về người con gái miền Bắc kiên cường, tươi xanh như cây thông giữa mùa đông. Bài thơ không chỉ dừng lại ở cảm xúc cá nhân, mà còn mang tầm vóc lớn lao của tình yêu quê hương, đất nước.

Nhà thơ Bùi Văn Dung - Tròn nửa thế kỷ "đào kênh", "gửi nắng"
Đại tướng Võ Nguyên Giáp căn dặn nhà thơ - cựu chiến binh Bùi văn Dung, năm 1995

Những câu thơ chân tình mộc mạc ấy có sự đồng điệu với tâm hồn người nhạc sĩ, khiến trong ông dâng trào cảm xúc và liền trong đêm ấy, nhạc sĩ đã thao thức phổ nhạc, trở thành bài hát Gửi nắng cho em nổi tiếng.

Với giai điệu trữ tình, lời thơ giản dị, quyến luyến dễ đi vào lòng người, khiến ca khúc được bạn yêu âm nhạc cả nước gửi thư khen và yêu cầu Đài Tiếng nói Việt Nam phát lại nhiều lần. Ca khúc như một cái duyên trời định cho nhà thơ và nhạc sĩ cùng tỏa sáng. Nhưng có một lá thư khiến nhạc sĩ xúc động: Ấy là thư của tác giả bài thơ, được gửi về từ mặt trận biên giới Tây Nam. Nhạc sĩ không ngờ rằng, nhà thơ ấy lại là một chiến sĩ đang cầm súng. Và trong lá thư, Bùi Văn Dung bày tỏ sự biết ơn nhạc sĩ đã làm cho bài thơ bay xa. Mong bài hát được phát lại trên sóng của đài, cho anh em đồng đội, nơi mặt trận cùng đón nghe...

Cuộc gặp gỡ của những tâm hồn đồng điệu

Sau khoảng năm năm khi bài thơ được nhạc sĩ Phạm Tuyên ở Đài Tiếng nói Việt Nam phổ nhạc. Một ngày giữa Thủ đô Hà Nội, có một chàng lính trẻ được về phép thăm gia đình sau nhiều năm chiến đấu xa nhà. Người lính - tác giả của lời bài hát Gửi nắng cho em Bùi Văn Dung đã tranh thủ ghé thăm người nhạc sĩ kính quý Phạm Tuyên tại nhà riêng. Nhạc sĩ vui mừng khôn xiết vì đó là lần đầu tiên hai con người có tâm hồn đồng điệu gặp nhau, như một chữ DUYÊN trời định. Bởi trước đó hai ông chỉ liên hệ qua thư từ. Sau vui mừng của cuộc hội ngộ, lại được biết Bùi Văn Dung sinh ra từ một vùng quê Bắc Bộ vào Nam chiến đấu, lại ở miền đất chỉ có hai mùa mưa nắng, không biết đến mùa đông xứ Bắc. Nét mặt nhạc sĩ thoáng buồn, ông nói: "Bài hát đã ngừng phổ biến, em có biết lý do gì không?" Bùi Văn Dung bộc bạch: "Em nghe nói vì động chạm đến chính trị... Khổ quá, vì thương vợ em, thương cả những người thợ cấy, thợ cày trong cái rét mùa đông miền Bắc rất lạnh, khi có gió mùa Đông Bắc tràn về, nên em viết thật lòng như thế". Người nhạc sĩ lặng lẽ vào phòng lục tủ lấy ra một xấp giấy đưa cho Bùi Văn Dung, đó là những lá đơn thư yêu cầu Đài Tiếng nói Việt Nam ngừng phát bài Gửi nắng cho em. Thế là ca khúc bị chìm trong im lặng đúng mười năm. Mãi đến những năm 1986-1987 mới được phát sóng trở lại trên Đài và hát trên các sân khấu biểu diễn toàn quốc. Thật là kỳ quặc, ấu trĩ vô lối của một thời như thế đã qua.

Nhà thơ Bùi Văn Dung - Tròn nửa thế kỷ "đào kênh", "gửi nắng"
Vợ chồng nhạc sĩ Phạm Tuyên và vợ chồng nhà thơ Bùi Văn Dung, năm 2002

Sớm hôm sau, chia tay người nhạc sĩ đáng kính, Bùi Văn Dung tâm sự: "Sắp tới đây đơn vị em lại đi chiến đấu xa hơn anh ạ, cũng chẳng biết sự sống, cái chết sẽ ra sao... Những năm tháng qua, em có viết được một số bài thơ, em muốn anh đọc giùm và lưu giữ giúp em..."

Đón nhận cuốn sổ lưu giữ những vần thơ của người lính trẻ Bùi Văn Dung, ông rất cảm động, thấy như một cái gì đó thật thiêng liêng cao quý. Ông ôm người lính trẻ vào lòng, như người anh ôm đứa em nhỏ của mình rồi động viên: "Thôi em đi đi, chân cứng đá mềm Dung nhé..."

Năm 1978, nhạc sĩ Phạm Tuyên trở lại miền Nam công tác. Khi ấy, phong trào Đoàn Thanh niên xung phong của Thành phố Hồ Chí Minh đang rộn rã khơi kênh, đào mương trên những mảnh đất khô cằn. Chợt những vần thơ của Bùi Văn Dung gửi cho ông hôm nào lại trỗi dậy. Trong đó có một bài thơ mà Bùi Văn Dung cảm xúc viết khi ông cùng đơn vị về miền Tây làm thủy lợi những năm 1976-1978. Ông đã chứng kiến hình ảnh những thanh niên nam nữ chẳng ngại khó khăn vất vả, quên mưa, quên nắng trên công trường đào kênh và bài thơ Con kênh ta đào đã ra đời từ đấy:

Giọt mồ hôi tròn lăn trên đất long lanh

Tóc em búi gió vương xòa trên má

Trời quê hương rất quen và rất lạ

Cứ xanh trong thăm thẳm ở trên đầu.

Con kênh ta đào chưa có nước chảy qua

Chỉ có nắng mùa hè cháy bỏng

Mồ hôi muối lưng áo em bạc trắng

Con kênh ta đào chưa là con kênh xanh.

Em soi khuôn mặt hồng xuống dòng kênh xanh không chỉ là vẻ đẹp của tuổi trẻ mà còn là niềm vui, sự tự hào khi nhìn thấy thành quả của chính mình. Bài thơ sử dụng ngôn từ mộc mạc, đậm chất thôn quê, giàu hình ảnh như: mồ hôi long lanh, mắt em trong vắt, đồng xanh... Cấu trúc lặp lại con kênh ta đào có em mà có anh tạo nhịp điệu hài hòa, sự đồng hành của những nam nữ thanh niên xung phong trên công trường.

Con kênh ta đào có em mà có anh

Đông vui quá có rất nhiều đồng đội

Ngày mai đây vào mùa gặt mới

Em soi khuôn mặt hồng xuống dòng kênh xanh.

Bài thơ cũng nhanh chóng được đăng trên báo, và một lần nữa chạm đến trái tim của người nhạc sĩ tài hoa, tô thắm thêm chữ DUYÊN của hai tâm hồn đồng điệu. Trong một đêm lửa trại với các chiến sĩ thanh niên xung phong, nhạc sĩ đã đọc bài thơ này và được các bạn trẻ rất yêu thích, nhiều người còn chép vào sổ tay. Rồi ngay sau đó, bài hát cùng tên Con kênh ta đào ra đời, được đón nhận nồng nhiệt ở khắp các sân khấu ca nhạc cả nước. Đặc biệt, ca khúc được hai ca sĩ Lê Dung và Kiều Hưng thể hiện rất thành công.

Nhà thơ Bùi Văn Dung - Tròn nửa thế kỷ "đào kênh", "gửi nắng"
Từ trái qua: Họa sĩ Đỗ Ngọc Dũng; các nhà văn, nhà thơ Vũ Quốc Khánh, Nguyễn Hưng Hải, Bùi Văn Dung, Nguyễn Hữu Nhàn, Tống Ngọc Hân trong chuyến đi thực tế tại Tam Nông, năm 2024

Tôi nhớ những lần trò chuyện với ông về những bài thơ được phổ nhạc, được biết Bùi Văn Dung còn một bài thơ nữa được Phạm Tuyên phổ nhạc. Đó là khi đơn vị ông được điều động ra biên giới phía Bắc. Trong một đêm hành quân, tình cờ ông gặp lại nhạc sĩ Phạm Tuyên tại đây. Người nhạc sĩ ôm chặt người chiến sĩ trong lòng bao xúc động, sau nhiều năm gặp lại. Rồi ông hỏi: "Dung đã nghe bài Con kênh ta đào chưa?"; "Có anh ạ. Cảm ơn anh rất nhiều"; "Thế với sự kiện này, Dung có thơ mới không?" Ý nhạc sĩ nói về cuộc chiến biên giới, Bùi Văn Dung nhỏ nhẹ trả lời: "Em có viết được một bài. Anh đọc nhé, Giá em đừng yêu anh..."

Đấy là một bài thơ tình của người lính, thổ lộ một tình cảm yêu thương thầm kín: Anh yêu em suốt đời/ Bằng tình yêu không nói...; Chiến tranh dài lắm đấy/ Chờ anh nhiều như vậy/ Mùa xuân nào chịu yên?

Một chút gì đó trong ngữ điệu, khiến ta nhớ đến thi phẩm nổi tiếng Em ơi đợi anh về của nhà thơ Nga K.Simonov. Có điều Em ơi đợi anh về/ Đợi anh hoài em nhé/ Mưa có rơi dầm dề/ Ngày có buồn lê thê/ Em ơi em cứ đợi.... Ấy là sự mong đợi, sự kiên trì của người ở lại, sẽ giúp người lính vượt qua mọi hiểm nguy gian khổ để trở về. Còn với Bùi Văn Dung lại lo cho người ở lại, trái tim thi sĩ của chàng lính trẻ, sợ người thân yêu phải lỡ làng tuổi xuân, phải chịu mất mát vì chiến tranh khốc liệt, vì phía trước là một kẻ thù dã man, thâm độc. Bởi vì:

Anh sẽ còn phải đi

Những phương trời bão nổi

Lại một kẻ thù mới

Hằm hè chốn biên cương...

Hai phương trời đầy nắng

Chờ anh về nghe em...

Bài thơ lại một lần nữa ám ảnh nhạc sĩ trong chuyến công tác, cùng hình ảnh những người lính sẵn sàng chiến đấu và hy sinh giữ biên cương Tổ quốc. Rồi những nét nhạc lại ngân lên cùng những lời ca không chỉ là tình ca, mà còn là hùng ca nữa.

Những câu thơ: Anh sẽ còn phải đi/ Đến chân trời bão nổi/ Bảo vệ cuộc đời mới/ Của Tổ quốc yêu thương... ra đời chân thật như vậy nhưng lại có ý kiến cho rằng "không hợp" hoàn cảnh và thế là thơ và nhạc lại tạm thời "nằm kho" vẫn chưa được phổ biến.

Nhà thơ Bùi Văn Dung - Tròn nửa thế kỷ "đào kênh", "gửi nắng"
Nhà thơ Bùi Văn Dung cùng các văn nghệ sĩ Phú Thọ - Hà Nội tại Không gian Nghệ thuật NSND Vương Duy Biên, nguyên Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, năm 2024

Năm 1987, Bùi Văn Dung rời quân ngũ sau hai mươi lăm năm cống hiến về sinh sống tại quê nhà, ông tham gia Ban Chấp hành Hội Cựu chiến binh xã và được tín nhiệm bầu làm Bí thư Đảng ủy xã trong hai khóa liên tiếp, được mời viết cuốn Lịch sử Đảng bộ xã Thượng Trưng, tham gia viết Lịch sử Đảng bộ Quân sự huyện Vĩnh Tường. Ông đã hai lần được gặp Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Mới đây nhà thơ được nhận Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng.

Dấu ấn của những thi phẩm Gửi nắng cho emCon kênh ta đào được phổ nhạc không chỉ là vinh dự của nhà thơ và nhạc sĩ mà còn in đậm trong tâm trí rất nhiều người yêu âm nhạc suốt nửa thế kỷ qua. Trở thành "Bài ca đi cùng năm tháng", nó vẫn được ngân vang trên các sân khấu của ngày hôm nay. Ngoài những thi phẩm được phổ nhạc, sau này nhà thơ Bùi Văn Dung đã xuất bản 3 tập thơ, hàng trăm bài thơ đăng báo, tạp chí. Thơ Bùi Văn Dung mộc mạc, dung dị mà khoáng đạt, trữ tình mà da diết sâu lắng, luôn lấp lánh một tâm hồn thi sĩ tài hoa, đầy nhạy cảm, đầy hồn nhiên và trẻ trung. Nhưng phải chăng ánh hào quang của những tia nắng vàng trong Gửi nắng cho em hay những dòng kênh xanh trong Con kênh ta đào đã phần nào che khuất nó, làm mờ nó, khiến bạn đọc chưa biết nhiều thi phẩm khác của ông? Bên cạnh đó, tôi được biết ông còn bản thảo của 3 cuốn tiểu thuyết chờ dịp xuất bản, bản thảo 1 tập thơ thế sự khái quát chân dung các nhà văn Việt Nam, mà tôi nghĩ ông phải đọc rất nhiều mới viết được như thế...

Năm 2002, nhà thơ Bùi Văn Dung đã tổ chức một bữa "Tiệc nắng" mời bà con xóm giềng, bạn bè, anh em đồng đội đến ăn mừng nhân sự kiện ra mắt tập thơ Gửi nắng cho em. Nhạc sĩ Phạm Tuyên và phu nhân từ Hà Nội đã lên dự, thể hiện tình cảm gắn bó giữa hai ông còn mãi mãi.

Cuộc đời thi sĩ, cựu chiến binh Bùi Văn Dung không chỉ gắn liền với quân đội, mà còn để lại những tác phẩm thi ca đi vào lịch sử của nền văn nghệ nước nhà, ông có quyền tự hào về thành tựu đáng trân trọng ấy.

Nhà thơ Bùi Văn Dung - Tròn nửa thế kỷ "đào kênh", "gửi nắng"
Giám đốc Đỗ Thị Hồng Đà và các văn nghệ sĩ Trung tâm Nghiên cứu, Bảo tồn và Phát huy Văn hóa dân tộc tỉnh Phú Thọ chúc mừng nhà thơ Bùi Văn Dung nhân dịp Đài PTTH Phú Thọ giới thiệu các ca khúc phổ thơ của ông, năm 2024

Thi sĩ Bùi Văn Dung nay đã bước sang tuổi 85, nhưng trời cho ông sức khỏe. Ông vẫn minh mẫn, trẻ trung nhanh nhẹn và yêu đời, cứ hồn nhiên Zalo, Facebook giao lưu thơ phú với bạn văn nghệ trăm miền, chia sẻ những kỷ niệm một thời tuổi trẻ, một thời trận mạc đã qua, giới thiệu những bài báo, bài thơ của ông, của bạn bè viết về ông đăng tải trên các báo chí, có những bài cách đây đến tròn nửa thế kỷ... Rồi cũng không thể thiếu hình ảnh những bóng hồng xinh đẹp, như một phần quan trọng nuôi dưỡng tâm hồn, nuôi dưỡng cảm xúc thi sĩ trong ông.

Vợ chồng ông có bốn người con, ba trai, một gái đều thành đạt, là bác sĩ, là cán bộ nhà nước ở tỉnh, tám cháu nội, ngoại. Những ngày lễ, Tết hoặc cuối tuần, con cháu lại về thăm ông bà thật đầm ấm hạnh phúc. Trong ngôi nhà khang trang thôn Chùa Chợ, xã Thượng Trưng, trên khuôn viên rộng đẹp, hoa trái sum suê, có tiếng suối reo cá lượn, lại có một Vọng Ngư Lâu thật tao nhã thường xuyên tiếp đón các "tao nhân mặc khách" ghé thăm. Cũng như tiếp tục có những cuộc trò chuyện, cuộc phỏng vấn, những câu chuyện thời binh nghiệp, chuyện văn chương, nhhệ thuật, chuyện đời, chuyện về Gửi nắng, về Con kênh...

Bùi Văn Dung sinh năm Tân Tỵ 1941, quê ở xã Thượng Trưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Thuở nhỏ, ông từng có ba năm từ 1956 đến 1959 học tại Ddectskydomov Chratava Czech Republic (Cộng hòa Tiệp Khắc). Từ năm 1962 đến năm 1987, tham gia quân đội, từng là lính pháo binh, rồi làm chính trị viên đại đội, từng tham gia các chiến trường miền Trung, miền Nam, qua khắp các mặt trận như Kon Tum, Tây Ninh, Quảng Trị, Sài Gòn tháng 4/1975, rồi biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc... Ông nghỉ hưu về quê nhà với quân hàm Trung tá.

Nhà thơ Bùi Văn Dung đã xuất bản các tác phẩm: Gửi nắng cho em (tập thơ, NXB Hội Nhà văn, 2002); Nhìn ngoài đôi mắt (tập thơ, NXB Phụ nữ Việt Nam, 2010); Trắng mây Tam Đảo (tập thơ, Hội Văn học nghệ thuật Vĩnh Phúc, 2017).

Tháng 3/2025

Biểu tượng - Thơ Vân Long

Biểu tượng - Thơ Vân Long

Baovannghe.vn- Biển và cây và trời/ Nhoà một hỗn mang
Lan tỏa giá trị gia đình qua cuộc thi viết: "Cha và con gái" lần thứ 3

Lan tỏa giá trị gia đình qua cuộc thi viết: "Cha và con gái" lần thứ 3

Baovannghe.vn - Ngày 14/3/2025, tại Đại học Hà Nội, Tạp chí Gia đình Việt Nam phối hợp cùng trường Đại học Hà Nội đã tổ chức lễ phát động cuộc thi viết với chủ đề “Cha và con gái” lần thứ 3.
Bế mạc Phiên họp thứ 43 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Bế mạc Phiên họp thứ 43 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Baovannghe.vn - Chiều 14/3/2025, tại Nhà Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu bế mạc Phiên họp thứ 43 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sau 2,5 ngày nhóm họp
Anora, từ Cannes đến Oscar, và một nền “điện ảnh bên lề”

Anora, từ Cannes đến Oscar, và một nền “điện ảnh bên lề”

Baovannghe.vn - Chiến thắng của Anora còn nói về một nền điện ảnh bên lề khác là làm phim độc lập kinh phí thấp. So với những tác phẩm “bom tấn” với kinh phí hàng trăm triệu đô la, với những ngôi sao cỡ bự,
Biển giả. Tản văn của Nguyễn Hiệp

Biển giả. Tản văn của Nguyễn Hiệp

Baovannghe.vn - Rạo lòng nghe rễ lên tận cuống/ Lá chợt xanh um mát cả hồn