![]() |
Họa sĩ - nhà thơ Hoàng Hữu (1945-1981) |
Phòng đọc của Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Phú Thọ sáng nay sinh động hẳn lên sau mùa báo Tết. Mấy chú cháu lướt xem đủ các loại ấn phẩm, chợt Diệu Trang nói: "Hội mình năm nay kỷ niệm 50 năm thành lập (1975-2025)", khiến tôi nhớ đến lớp văn nghệ sĩ đầu tiên của Hội khi còn là tỉnh Vĩnh Phú: Trần Quốc Phi, Nguyễn Chí Vượng, Ngô Quang Nam, Cao Khắc Thùy, Phạm Khương, Nguyễn Kính Mời, Nguyễn Bùi Vợi, Vũ Đình Minh, Nguyễn Hữu Nhàn, Nguyễn Đình Ảnh, Phan Đinh, Vân Trang, Nguyễn Uyển, Kim Dũng, Trịnh Hoài Đức, Nguyễn Cảnh Tuấn, Nguyễn Hinh Anh, Trần Khoát, Nguyễn Hà, Nguyễn Đài, Hoàng Hữu... Nhớ Hoàng Hữu, nhớ đến những bìa sách đẹp do ông vẽ, cùng những kỷ niệm... Đặc biệt là bài thơ nổi tiếng Hai nửa vầng trăng từ lâu tôi đã thuộc lòng:
Tình cờ anh gặp lại vầng trăng
Một nửa vầng trăng thôi, một nửa
Trăng vẫn đấy mà em xa quá
Nơi cuối trời em có ngóng trăng lên?
Đầu hè năm 1980, khi tiếng ve bắt đầu gióng lên nhũng điệu nhạc quen thuộc, cũng là lúc cây phượng già bên con dốc cổng trường buông những chùm hoa trĩu đỏ. Cánh học viên khoa Mỹ thuật - Trường Văn hóa Nghệ thuật Vĩnh Phú chúng tôi (trường khi ấy đặt tại huyện Đoan Hùng), trong giờ vẽ hình họa buổi chiều ấy được đón tiếp các họa sĩ bậc thầy ở tỉnh lên thăm: Trần Đình Ninh, Nguyễn Đài, Hoàng Hữu, là những họa sĩ tên tuổi của Vĩnh Phú bấy giờ. Chúng tôi chỉ được nghe danh các ông, hoặc qua các tác phẩm, đặc biệt với họa sĩ Hoàng Hữu là những bìa sách ông vẽ cho Nhà xuất bản Văn học mà tôi rất ấn tượng: Những người khốn khổ; Trang trại trong thảo nguyên; Muối của đất; Đất vỡ hoang; Nắng đồng bằng...
Sau lời giới thiệu của thầy tôi - họa sĩ Vương Chùy, các ông cùng thầy tôi đi xem lớp vẽ, góp ý cho từng người. Tôi được họa sĩ Nguyễn Đài đến bên cạnh thị phạm khá lâu, chả là có người thân giới thiệu nên tôi đã biết Nguyễn Đài trước đó. Nguyễn Đài và Hoàng Hữu cùng ở Hội Văn nghệ tỉnh, thấy Nguyễn Đài tập trung vào bài của tôi, Hoàng Hữu cũng đến xem và góp ý thêm. Tôi vẫn nhớ hình ảnh ông hôm ấy với dáng người mảnh khảnh, da trắng, mặc bộ kaki, quần sẫm, áo cộc tay sáng màu, hơi cũ, cổ đã sờn. Trông ông gợi nhớ hình ảnh anh giáo Thứ trong phim Chị Dậu. Có lẽ cái tạng vẽ tôi gần với sở trường đồ họa của ông, nên Hoàng Hữu hướng dẫn tôi khá kỹ, giọng nói chậm rãi, nhỏ nhẹ đầy thân mật, ông còn hỏi thăm tôi về gia đình, quê quán... Thời điểm ấy chiến tranh biên giới phía Bắc đang diễn ra ác liệt.
![]() |
Một số thành viên sáng lập Hội Văn học Nghệ thuật Vĩnh Phú (từ phải sang): nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, nhạc sĩ Phạm Khương, nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, họa sĩ - nhà thơ Hoàng Hữu, nhà thơ Vũ Đình Minh, nhà thơ Nguyễn Cảnh Tuấn, đạo diễn phim truyền hình Nguyễn Hinh Anh (năm 1974) |
Cuối năm ấy, trường chúng tôi chuyển về Thụy Vân, Việt Trì. Một lần, tôi được tăng cường về Ty Văn hóa vẽ tranh cổ động tuyên truyền Đại hội Đảng bộ tỉnh (Ty Văn hóa ngày ấy còn ở khu Đoàn kịch gần Hội bây giờ). Thi thoảng tôi đi qua cổng Hội, có hôm còn dừng lại khá lâu nhìn các văn nghệ sĩ đi đi, lại lại phòng nọ, phòng kia mà rất ngưỡng mộ. May thay một lần được họa sĩ Nguyễn Đài cho gọi sang ăn cơm trưa cùng ông và Hoàng Hữu. Bữa ấy, hai ông thết tôi món tôm rang, nấu lẫn với thịt ba chỉ cháy cạnh ăn thật tuyệt. Phải nói Nguyễn Đài rất khéo nấu ăn, đến tận bây giờ nhớ lại vẫn ứa nước miếng. Sau bữa trưa, Hoàng Hữu đưa tôi xuống thăm phòng ông dãy nhà bên dưới (hai ông nấu ăn cùng nhưng mỗi người ở một phòng để tiện làm việc). Tôi liếc nhìn trong phòng thấy treo bức bột màu vẽ phong cảnh đêm trăng, gam lạnh có con đường hun hút chạy về xa xăm. Sách báo bề bộn, một tấm kính thay palet pha màu, có mấy bìa sách, cái đã hoàn thiện, cái còn dở dang: Tắt đèn; Bông hồng vàng; Nguyễn Trãi ở Đông Quan và bìa Tạp chí Sáng tác mới, khiến tôi ngắm nhìn mãi. Ở một góc phòng có bức tượng chân dung Hoàng Hữu bằng thạch cao còn ướt, ông cho biết do họa sĩ Trương Quốc Tâm làm, mới đổ khuôn. Ông hỏi: "Em thấy có giống anh không?" Tôi trả lời: "Rất giống anh ạ".
Cuối năm 1981, tôi đi thực tập tốt nghiệp ở Nhà máy Dệt Vĩnh Phú, được tin Hoàng Hữu mất, tôi bàng hoàng thương tiếc một người tài hoa bạc mệnh. Dù trước đó tôi biết ông bị bệnh suy tim nặng, từng phải mổ và có thể ra đi bất cứ lúc nào. Lại biết cả người bạn thân thiết của ông - họa sĩ Nguyễn Đài cũng bị căn bệnh mất ngủ kinh niên, lúc nào trong túi áo cũng phải có vài vỉ thuốc Seduxen. Hai ông là bệnh nhân lưu cữu thường xuyên của Bệnh viện tỉnh, thi thoảng tôi vẫn thấy các ông ra vào ở cổng viện. Ngày ấy, bác sĩ, nhà thơ Huy Mai - Giám đốc Bệnh viện tỉnh luôn dành cho hai ông sự quan tâm đặc biệt nhất. Bên cạnh còn có vợ chồng bác sĩ Thắng - Phượng, anh chị là những chuyên gia về tim mạch, hết lòng chăm sóc sức khỏe cho Hoàng Hữu. Bệnh viện bố trí cho hai ông hẳn một phòng riêng để vừa đi viện, vừa sáng tác.
Năm 1982, tôi ra trường về công tác tại Ty Văn hóa Thông tin. Năm 1985, họa sĩ Nguyễn Đài ở Hội nghỉ hưu, tôi xin chuyển về Hội, lại ở ngay cạnh căn phòng mà Hoàng Hữu từng ở. Tiếp tục công việc của một họa sĩ như các ông ngày nào. Có điều khiến tôi băn khoăn: Một lần, cơ quan Hội dọn kho thấy có một số tranh, trong đó có mấy bức sơn dầu của họa sĩ Vương Chùy và Trần Đình Ninh, cái đã mục khung, cái tróc sơn... Mấy tranh này đã được chuyển giao cho gia đình các họa sĩ. Riêng các bức tranh Đêm trăng của Hoàng Hữu và Góc trung du của Nguyễn Đài, chất liệu bột màu trong khung kính thì nguyên vẹn. Họa sĩ Quang Thái có mượn Hội về treo nhà. Năm 2011, Quang Thái mất, rồi từ đó tôi cũng không biết hai bức tranh này hiện ở đâu.
![]() |
Họa sĩ - nhà thơ Hoàng Hữu bên tác phẩm "Ngõ quê" tại Nhà triển lãm Mỹ thuật 16 Ngô Quyền, Hà Nội |
Năm 1999, ông Nguyễn Hữu Dụ - anh trai Hoàng Hữu cùng nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi, dịch giả Đăng Bẩy lên Hội bàn việc xây cất mộ Hoàng Hữu. Với tình cảm và sự trân trọng con người tài hoa Hoàng Hữu, tôi đã tự nguyện vẽ thiết kế và trực tiếp chạy đi, chạy lại hướng dẫn thợ thi công trong những ngày xây bia mộ ông. Có thể nói, cùng với tập thể Hội, các văn nghệ sĩ... cánh trẻ chúng tôi bấy giờ: Đỗ Ngọc Dũng, Quang Thái, Tuấn Râu, Nguyễn Thiện Kế, Ngô Kim Đỉnh... tất cả đều hăm hở cho công việc nghĩa cử này (chuyện xây mộ Hoàng Hữu trước đây Ngô Kim Đỉnh đã có bài chia sẻ trên Báo Người Hà Nội).
Tác giả của Hai nửa vầng trăng - họa sĩ, nhà thơ Hoàng Hữu, người bệnh tim mảnh dẻ, lại nhút nhát, miệng luôn nở nụ cười tươi, xởi lởi, mà làn môi lúc nào cũng tím tái. Một ngày đầu năm 1974, khi đang xem tranh, Nguyễn Hà bảo: "Chẳng lẽ lại để Hoàng Hữu chết mà không biết mùi đời, tao mới kiếm cho nó một đám rồi". Anh em nhanh nhảu hỏi: "Đám nào đấy, có đạt không, ở đâu?" "Yên tâm đi, Hà này mà chọn mặt không phải xoàng đâu, chỉ có mà hết ý". Thế rồi một quyết định được đưa ra ngay lập tức: Lấy vợ cho Hoàng Hữu, đi xem mặt cô dâu tương lai. Nguyễn Hà lai Hoàng Hữu về trường cấp III Lê Xoay, Vĩnh Tường từ hôm trước. Hữu Thỉnh, Nguyễn Hữu Nhàn, Nguyễn Đài, Nguyễn Đình Ảnh và Kim Dũng về hôm sau. Cao Khắc Thùy - Thủ trưởng phải ở nhà gác cơ quan mà lòng dạ bồi hồi, đứng ngồi không yên, chỉ lo việc lớn không thành. Dù đoàn nhà trai ra quân toàn những văn nhân, nghệ sĩ có dư trình độ thuyết khách.
Bữa ấy, cô giáo Minh bố trí tiếp các văn nghệ sĩ nhà trai, một buổi tiệc ngọt rất tao nhã mà ấm cúng. Tuy sự khởi đầu khá suôn sẻ nhưng mọi người vẫn lo cho Hoàng Hữu, sợ một người đảm đang như cô giáo Minh khó chấp nhận một họa sĩ ốm yếu. Không ngờ cô giáo Minh như duyên trời định, gặp chàng họa sĩ thư sinh đã có cảm tình ngay. Sau một thời gian ngắn, như để tránh sự gièm pha, lại nghe nói phía nhà gái nhiều người ngăn không muốn chị Minh lấy một người đã mổ tim, thế nên thực hiện lời các cụ dạy: Cưới vợ thì cưới liền tay... từ Ủy viên Thư ký Ban Vận động thành lập Hội - nhạc sĩ Cao Khắc Thùy, đến nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn, họa sĩ Nguyễn Đài... anh chị em ở cơ quan đều quan tâm, lo lắng, thúc giục Hoàng Hữu phải hành động quyết liệt, phải sớm chiếm lĩnh trận địa, buộc đối phương không còn cơ hội thay đổi (Thời điểm từ tháng 11/1973 đến hết tháng 2/1975, Vĩnh Phú mới có Ban Vận động thành lập Hội do Thường vụ Tỉnh ủy - Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trần Quốc Phi làm Trưởng ban. Ban Vận động được giao trụ sở, có con dấu và tài khoản riêng hoạt động. Đến đầu tháng 3/1975, tổ chức Đại hội thành lập Hội Văn học Nghệ thuật Vĩnh Phú).
![]() |
Vợ chồng họa sĩ - nhà thơ Hoàng Hữu và hai con Thủy Trang, Yên Chi, năm 1980 |
Nguyễn Hữu Nhàn là người đơn giản, thực tế, ông truyền dạy kinh nghiệm cho Hoàng Hữu rất cụ thể. Ông bảo: "Cậu phải giả vờ vô tình chạm vào tay nó, nếu nó để im thì dần mới nắm tay, ôm eo... nó lại để im hoặc chỉ phản xạ chiếu lệ thì mới được sờ ti. Khi gần nhau phải nhẹ nhàng đặt tay lên gối, nó để im thì mới dần dần sờ lên trên được". Thế rồi, một buổi sớm đầu tuần giữa sân Hội, Hoàng Hữu mặt mày rạng rỡ thông báo: "Thành công rồi, thành công rồi". Mọi người hỏi cụ thể thế nào, Hoàng Hữu khẽ nói: "Tôi đã nắm được tay nàng". Mọi người nhìn nhau lắc đầu, tiến độ chậm thế này biết bao giờ mới chạm được "khung thành", không khéo lại xôi hỏng bỏng không. May thay chị Minh đã vượt qua mọi lực cản quyết dành tình cảm cho Hoàng Hữu...
Mới đây, được nghe nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn kể: Một dịp, Hội Vĩnh Phú tổ chức trại sáng tác tập trung, ông được Phó Chủ tịch Thường trực Hội - nhạc sĩ cao Khắc Thùy giao làm Trại trưởng. Hoàng Hữu đề nghị ông cho mời thêm cô bạn họa sĩ tên Dung ở Hà Nội lên dự trại. Tối đầu tiên sau khai mạc trại, Hoàng Hữu báo cáo đưa Dung đi ngắm trăng trung du... Sáng hôm sau, trại trưởng Nguyễn Hữu Nhàn dậy sớm đi bộ thể dục, thấy hai người ngồi ở góc phòng lễ tân. Sau ăn sáng, Nguyễn Hữu Nhàn vỗ vai Hoàng Hữu hỏi nhỏ: "Thế nào, xong chưa?" Hoàng Hữu nhanh nhảu đáp: "Báo cáo anh em sắp có bài thơ". Nguyễn Hữu Nhàn chau mày, lắc đầu nói gần như quát: "Thôi cậu hỏng rồi, cậu hỏng quá rồi. Nó đéo cần thơ!" Rồi sau đó với tư cách bề trên, người đã có vợ, ông khai mở cho Hoàng Hữu thêm những kinh nghiệm tình trường.
![]() |
Nhà thơ Hữu Thỉnh - Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam phát biểu tại Lễ ra mắt tập sách "Hoàng Hữu và tác phẩm", do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức tại Hà Nội, ngày 14/7/2018 |
Không biết cô bạn gái tên Dung này có phải là nàng thơ có chữ D, cùng với tên cha mẹ đặt Nguyễn Hữu Dũng là mạch nguồn cảm xúc để Hoàng Hữu có cái tứ Hai nửa vầng trăng - bài thơ nổi tiếng đến tận bây giờ không?
Tình cờ anh gặp lại vầng trăng
Một nửa vầng trăng thôi, một nửa
Trăng vẫn đấy mà em xa quá
Nơi cuối trời em có ngóng trăng lên?
Nắng tắt đã lâu rồi, trăng thức dậy dịu êm
Trăng đầu tháng có lần em ví
Chữ D hoa như vầng trăng xẻ nửa
Tên anh như nửa trăng mờ tỏ
Ai bỏ quên lặng lẽ sáng bên trời.
Ơi vầng trăng theo con nước đầy vơi
Trăng say đắm dào trên cỏ ướt
Trăng đầu tháng như đời anh chẳng thể nào khác được,
Trăng cuối tháng như đời anh hao khuyết
Em đã khóc
Trăng từng giọt tan vào anh mặn chát
Em đã khóc
Nhưng làm sao tới được
Bến bờ anh tim dội sóng không cùng
Đến bây giờ trăng vẫn cứ còn xanh
Cứ một nửa như đời anh, một nửa
Nhưng trăng sẽ tròn đầy, trăng sẽ...
Trăng viên mãn cuối trời đêm đêm em có nhớ?
Mặt trăng từng khuất nửa ở trong nhau.
(1981)
Mượn vầng trăng để nói về tình yêu, như một sự ngẫu nhiên của tên nàng và chàng đều có chữ D để thổ lộ tất cả. Lời thơ vừa tâm tình, vừa ngậm ngùi, day dứt: Trăng đầu tháng như đời anh chẳng thể nào khác được/ Trăng cuối tháng như đời anh hao khuyết. Tác giả như hiểu được định mệnh của số phận, càng trân trọng tình yêu cả những ngọt ngào và cay đắng. Em đã khóc/ trăng từng giọt tan vào anh mặn chát, rồi như thổn thức, rồi lại Em đã khóc, sự xót xa chia sẻ. Những giọt nước mắt của tình yêu không trọn vẹn khiến người đọc cảm động. Em đã khóc/ nhưng làm sao khác được/ Bến bờ anh tim dội sóng không cùng. Những câu thơ, nhịp thơ lên xuống tự do, được chưng cất từ cảm xúc chân thực nhất của tâm hồn thi sĩ, giãi bày tâm sự. Nó vượt qua mọi giới hạn gò bó của niêm luật vần điệu, để bung ra cái nhịp điệu của âm thanh tâm hồn. Thủ pháp ẩn dụ lẫn trong những biến hóa của màu sắc hội họa, một chút như xô lệch, như trúc trắc tương phản của gam nóng, lạnh. Hay hẫng hụt như chính cuộc đời tác giả.
Trăng đầu tháng có lần em ví
Chữ D hoa như vầng trăng xẻ nửa
Tên anh như nửa trăng mờ tỏ
Ai bỏ quên lặng lẽ sáng bên trời...
Tác giả muốn nhắc đến tên thật của mình: Nguyễn Hữu Dũng, còn tên nàng thơ cũng bắt đầu bằng chữ D hoa, hai nửa chữ D hoa ghép lại thành mặt trăng tròn. Nhưng ai bỏ quên? Số phận bỏ quên hay chính cuộc đời chưa nhận ra tài năng nghệ sĩ - thi sĩ trong ông... Để rồi nó cứ tự sáng bên trời, tự chống chọi với số phận. Tạo hóa vô cùng trớ trêu thay, những tài năng lại thường bạc mệnh.
Mặt trăng từng khuất nửa ở trong nhau, nghĩa là một trong hai nửa ấy bị khuất trong chính hai con người ấy. Thật là một sự liên tưởng tài tình, không thể hơn của tâm hồn thi sĩ đầy ẩn dụ. Trăng say đắm dào trên cỏ ướt; Trăng từng giọt tan vào anh mặn chát... Những câu thơ như thế thì quả là sự tuyệt vời của trí tưởng tượng, là lúc máu trong tim tác giả đã căng đầy đến nghẹt thở.
![]() |
Các đại biểu tại lễ ra mắt tác phẩm của Hoàng Hữu (Từ phải sang): bà Nguyễn Thị Minh - vợ cố họa sĩ, nhà thơ Hoàng Hữu; các nhà thơ Bằng Việt, Vũ Quần Phương, Trần Quang Quý, Nguyễn Ngọc Tung; nhà báo Đỗ Quốc Long; nhà thơ Hữu Thỉnh; họa sĩ Đỗ Ngọc Dũng; các nhà thơ Trần Đăng Khoa, Nguyễn Đình Chiến, Nguyễn Hưng Hải và dịch giả Nguyễn Thúy Toàn |
Hai nửa vầng trăng - những câu thơ giản dị tài hoa, sự ngậm ngùi, tâm trạng của tình yêu lãng mạn, của sự chia sẻ cảm thông, của những giọt nước mắt, của con tim thổn thức mang nhiều tầng ý nghĩa khác nhau. Hình ảnh vầng trăng được mượn một cách độc đáo, vừa dịu hiền sáng trong lại ẩn chứa tình người, khát vọng tình yêu trọn vẹn viên mãn, dù biết điều đó là rất khó. Nó lấp lánh một không gian huyền ảo trong sắc màu của hội họa trừu tượng. Sự liên tưởng tinh tế của cái nhìn họa sĩ vốn nhạy cảm từ thực tế màu sắc hình khối như thế.
Một nửa vầng trăng từng có trong thơ Nguyễn Du (Vầng trăng ai xẻ làm đôi - Truyện Kiều), trong ca từ của nhạc sĩ An Thuyên (Cắt nửa vầng trăng... - Ca dao em và tôi). Thậm chí cả "hái trăng" rồi "bán trăng" như Hàn Mặc Tử... Nhưng để nói về một tên người cụ thể thì Hoàng Hữu là một sáng tạo độc đáo của thi ca đương đại.
Từ lâu mọi người đều cho rằng Hoàng Hữu mượn hình tượng trăng để có bài thơ Hai nửa vầng trăng từ người phụ nữ tên Dung, một họa sĩ cùng trường Mỹ thuật với Hoàng Hữu. Cả hai người đều học đồ họa và cùng đam mê vẽ bìa sách, nhất là vẽ bìa cho những tác phẩm, tác giả văn chương nổi tiếng. Chị Dung rất quý anh Dũng, hai người rất thân nhau và thường có sự chia sẻ, cảm thông về cuộc sống và công việc. Khi ấy, Hoàng Hữu đã nổi tiếng về bìa sách, có bìa sách từng được giải quốc tế, nhiều tranh phong cảnh đẹp, cùng một số bài thơ đăng báo. Những bìa sách tiêu biểu như: bộ tiểu thuyết Những người khốn khổ của Victor Hugo; Bông hồng vàng của Paustovsky; Muối của đất của G.Markov và cuốn Thơ Tagor...
![]() |
Họp bàn xây cất mộ Hoàng Hữu (từ trái qua): họa sĩ Ngô Quang Nam; bác sĩ Nguyễn Quế Phượng; ông Nguyễn Hữu Dụ (anh trai Hoàng Hữu); nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn; nhà viết kịch Trịnh Hoài Đức; họa sĩ Đỗ Ngọc Dũng; dịch giả Nguyễn Đăng Bẩy; nhà thơ Nguyễn Đình Ảnh; bác sĩ, nhà thơ Huy Mai tại Hội Văn học nghệ thuật Phú Thọ, năm 1999 |
Chợt tôi nhớ đến cô bạn họa sĩ tên Dung của Hoàng Hữu dự trại sáng tác tại Việt Trì năm nào mà nhà văn Nguyễn Hữu Nhàn từng kể. Rất có thể chị chính là nguyên mẫu của chữ dê hoa (D) - một nửa vầng trăng, khởi nguồn cho cái tứ thơ độc đáo và tài tình Hai nửa vầng trăng, ít nhất là những khổ đầu. Nhưng những câu thơ như: Em đã khóc/ Trăng từng giọt tan vào anh mặn chát... Ấy chính là sự xuất hiện hình ảnh của người vợ, chỉ có vợ mới ở bên cạnh Hoàng Hữu trong những lúc éo le nhất của cuộc đời.
Đã có nhiều cuộc tìm kiếm chữ D bí ẩn kia. Nhiều người đã tìm đến chị Dung hỏi chị. Chị không phủ nhận tình cảm với Hoàng Hữu, nhưng nói chỉ giới hạn ở tình anh em thân thiết, tình đồng nghiệp. Còn đối với Hoàng Hữu, chị không biết và anh hoàn toàn có quyền đơn phương...
Hai nửa vầng trăng là một trong các di cảo Hoàng Hữu để lại. Bài thơ được ông viết trước khi mất bốn tháng. Khi biết cuộc thi thơ của tuần Báo Văn nghệ, bạn bè ông ở Hội khi ấy là Cao Khắc Thùy, Nguyễn Đài, Nguyễn Đình Ảnh đã gửi Đăng Bẩy và Phạm Tiến Duật một số di khảo thơ ông dự thi. Kết quả cuộc thi năm đó: Bài thơ Hoàng Hữu được trao giải Nhì. Giải Nhất thuộc về hai tác giả Trần Đăng Khoa (với bài thơ Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn) và Đinh Nam Khương (với bài Từ những vết chân người). Nghe nói, dù âm hưởng chính trong các sáng tác lúc bấy giờ là ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng sau chiến thắng... song nhà thơ Xuân Diệu vẫn quyết liệt đòi Ban Chung khảo phải trao giải Nhất cho Hai nửa vầng trăng, ông quả quyết bài thơ sẽ còn mãi nhưng không được. Đến nay, thời gian đã minh chứng sự nhìn nhận tinh tế, chính xác của Xuân Diệu: Thi phẩm Hai nửa vầng trăng của Hoàng Hữu vẫn vẹn nguyên sức sống như thuở ban đầu, vẫn tiếp tục được lưu truyền trong sổ tay của những thế hệ bạn đọc. Nó được nhạc sĩ Nguyễn Đình Bảng phổ nhạc và ghi dấu ấn bởi ca sĩ Ngọc Tân. Hơn 40 năm Hai nửa vầng trăng vẫn tỏa sáng.
![]() |
Các văn nghệ sĩ Hội Phú Thọ và đại diện gia đình làm lễ động thổ xây dựng bia mộ Hoàng Hữu |
Bác sĩ Nguyễn Tiến Thắng, người theo dõi bệnh tình của nhà thơ cho biết: Hoàng Hữu bị hẹp van hai lá, suy tim độ 3. Thời điểm những năm 1970-1980 của thế kỷ trước, thuốc men, thực phẩm thiếu thốn, y học chưa phát triển như ngày nay. Một trái tim yếu đuối như trái tim Hoàng Hữu khiến ông có thể ra đi bất cứ lúc nào. Và trên đường từ Việt Trì xuống Hà Nội ghé thăm một số bạn bè trong đó có nhà thơ Vũ Quần Phương, rồi về Bần Yên Nhân đón vợ con... Hoàng Hữu đã mất trên tay bác sĩ Thắng - người bạn thân thiết và cũng là ân nhân của ông.
Bà Minh, vợ Hoàng Hữu kể: Ngày 29/12 năm ấy, lớp học của bà bế giảng. Phần vì không muốn cho vợ con vất vả, lỉnh kỉnh với những đồ đạc, phần vì Hoàng Hữu muốn kết hợp qua Hà Nội thăm bạn bè, bệnh viện đã cho xe chở ông đi đón mẹ con bà, cơ quan Hội đã cho tạm ứng một tháng lương. Sau khi rẽ vào Hà Nội chào bạn bè, xe về đến Bần Yên Nhân lúc 16 giờ 30 phút đón bà và hai cháu. Xe đi một đoạn thấy ông đau ngực thì dừng lại cho ông nghỉ. Sau đó xe cứ lúc đi, lúc dừng. Khoảng 21 giờ, ông đau dữ dội, máu tứa ra mũi, miệng, ông nắm chặt tay bà gọi tên bà, tên các con, vợ chồng bác sĩ Thắng - Phượng... Lời cuối cùng ông nói rất nhỏ: "Anh Dụ... tập thơ..." Đến 21 giờ 30 phút, ông trút hơi thở cuối cùng trên xe. Đêm đó mãi 23 giờ 30 phút xe mới về đến nhà - khu tập thể giáo viên trường cấp III Việt Trì. Ngày hôm sau, thi hài ông đươc đưa về trụ sở Hội tổ chức tang lễ... Tin Hoàng Hữu mất khiến bạn bè ai cũng sững sờ thương tiếc. Còn bà, bà đã đau đớn đến trăm bề... Ông đã yêu bà đến tận cùng, đúng hơn là đến giây phút cuối cùng.
![]() |
(Từ trái qua): Họa sĩ Đỗ Ngọc Dũng, nhà thơ Nông Thị Ngọc Hòa, nhà thơ Vũ Thanh Thủy thăm viếng mộ Hoàng Hữu (tháng 10/2019) |
Sau này, tôi được nhạc sĩ Cao Khắc Thùy - nguyên Phó Chủ tịch Thường trực Hội khi ấy cho biết, có nhiều cơ quan ở Trung ương muốn xin Hoàng Hữu về Hà Nội. Nhưng ông đều từ chối, Hoàng Hữu từng rớm nước mắt, xúc động nói: Tình cảm của cơ quan Hội, của Bệnh viện tỉnh, của bạn bè, anh em văn nghệ sĩ dành cho ông, gia đình ông quá sâu nặng. Ông không nỡ rời xa anh em, không thể rời xa cái trụ sở Hội trên con đường Lê Quý Đôn, dù ngày ấy còn rất đơn sơ.
Theo bác sĩ Nguyễn Tiến Thắng, Hai nửa vầng trăng ra đời ở nhà ông, lúc đó bà Minh (vợ Hoàng Hữu) ghen lắm: D nửa với dê hoa, nghi Hoàng Hữu yêu cô nào. Nghi là phải lắm. Vì Hai nửa vầng trăng khác biệt hẳn, nó vượt tầm các sáng tác thông thường của Hoàng Hữu. Nó lại là một bài thơ tình thăng hoa, dạt dào, đầy ắp hạnh phúc, cả sự khắc khoải đớn đau. Thường khi đã lấy nhau, tình yêu ẩn trong tình vợ chồng, mấy ai còn nhận thấy cái nhịp đập rộn rã của con tim, cái đắm đuối của nụ hôn đầu đời. Đã thế lại còn liên tưởng đến chữ D nào đó...
Một ngày mùa thu năm 2012, chúng tôi nhận được lá thư từ Thành phố Hồ Chí Minh, lá thư có đoạn như sau:
Sau bảy ngày anh Hoàng Hữu mất, Hội Văn học Nghệ thuật Vĩnh Phú tổ chức đêm thơ - họa tưởng niệm anh. Đêm hôm ấy, các anh đến dự đông kín hội trường của Hội. Anh Nguyễn Đình Ảnh đọc bài thơ Hai nửa vầng trăng và nói: "Bài thơ cuối cùng Hoàng Hữu viết tặng chị Minh, vợ thân yêu của anh!" Đêm ấy về, tôi thao thức, không sao ngủ được bởi cái tên em có chữ "D hoa" nào đó cứ ám ảnh tôi trong câu thơ trăng đầu tháng có lần em ví... Và thế là tôi hờn giận ba ngày liền không thắp hương, cúng cơm anh. Khi biết tin, anh Huy Mai, Giám đốc Bệnh viện Việt Trì, chạy sang chỉ vào mặt tôi mắng: "Em ngu thế, vì em nó mới có bài thơ hay như vậy!" Nghe anh mắng, tôi vẫn lặng thinh. Sự hờn giận hồ đồ vô cớ, sự chậm hiểu này của tôi đã làm khổ Hoàng Hữu, làm khổ các anh từ bấy đến nay ước chừng 31 năm trời dằng dặc (1981-2012). Giờ phút này, trên tay tôi là cuốn sách do tôi tự sưu tập, sắp xếp theo thứ tự thời gian các bài của anh em, bạn bè viết về Hoàng Hữu, đã được in ấn, đăng tải trên các báo, tạp chí Trung ương và địa phương. Đọc bài nào cũng toát lên một tình cảm chân thành mến mộ. Tôi run run biết ơn và xúc động. Giờ tôi đã nghỉ hưu. Rảnh rỗi, tôi thường ngâm nga Hai nửa vầng trăng của anh, lòng như ấm lại, trào dâng nỗi niềm thương nhớ vô hạn. Sự "tình cờ" bởi cái tên cúng cơm do cha mẹ đặt Nguyễn Hữu Dũng - cái tên bắt đầu bằng chữ D hoa đã khiến anh viết thành công bài thơ gửi tặng cho đời. Vượt nỗi đau số phận nghiệt ngã của mình, chắt lọc ra hai nửa vầng trăng, nửa "tròn đầy", nửa "viên mãn", vững tin ở ngày mai tốt đẹp. Từ bài thơ Hai nửa vầng trăng ghi đậm dấu ấn một thi nhân tài hoa của Việt Nam. Còn tình yêu, hạnh phúc của chúng tôi ư? Quả là ngắn ngủi. Có vẻn vẹn bảy năm chung sống (1974-1981). Biệt ly nhau năm ấy, cháu Thủy Trang 7 tuổi, cháu Yên Chi 5 tuổi. Giờ thì các cháu đã chồng con, gia đình đề huề cả, học hành đến nơi đến chốn, đỗ đạt Cử nhân Kinh tế, làm việc có uy tín nơi công sở, sống có hiếu với mẹ. Hiện thời, cả ba mẹ con chúng tôi đều trụ tại Thành phố Hồ Chí Minh, gia thất độc lập riêng biệt. Nhiều đêm tỉnh dậy tôi cứ ngỡ mình lạc vào trong mơ vậy. Thưa các anh! Trên đây là lời tự sự tỏ lòng biết ơn và nhận lỗi của tôi trước vong linh anh Hoàng Hữu, mong nhận được sự cảm thông chia sẻ sâu sắc nhất từ các anh. Tôi thành tâm kính chúc tình bạn của các anh vẫn mãi trong sáng, bền vững. Kính chúc các anh sức khỏe, gia quyến an khang, thịnh vượng, hạnh phúc. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 14 tháng 8 năm 2012 Nguyễn Thị Minh - Vợ cố họa sĩ, nhà thơ Hoàng Hữu |
Hoàng Hữu tên thật là Nguyễn Hữu Dũng, sinh ngày 24/9/1945 tại Tiên Lãng, Hải Phòng; mất ngày 29/12/1981 tại Phú Thọ, ở tuổi 37. Ông là họa sĩ - nhà thơ công tác tại Hội Văn học Nghệ thuật Vĩnh Phú (nay là Phú Thọ). |
Việt Trì, Ngày rét chót tháng 3/2025
Hướng tới kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Phú Thọ (1975-2025)