Diễn đàn lý luận

Những người mẹ Việt Nam của thi sĩ Bùi Minh Quốc

Tác phẩm và dư luận
08:46 | 08/03/2024
Tôi là lớp đàn em của anh Bùi Minh Quốc. Khi bước chân vào lớp 8 trường Chu Văn An, tôi đã tới Phòng truyền thống của trường là một ngôi nhà bát giác rất đẹp bên bờ Hồ Tây.
aa

Tôi là lớp đàn em của anh Bùi Minh Quốc. Khi bước chân vào lớp 8 trường Chu Văn An, tôi đã tới Phòng truyền thống của trường là một ngôi nhà bát giác rất đẹp bên bờ Hồ Tây. Và tôi đã gặp ở đây bài thơ “Lên miền tây” của anh Bùi Minh Quốc.

Bài thơ nổi tiếng ấy anh Quốc đã viết năm anh đang học lớp 9 hay lớp 10 gì đó ở ngôi trường rất nổi tiếng này. Và bài thơ này nổi tiếng khắp miền Bắc, rất nhiều thế hệ học sinh và cả sinh viên đã thuộc bài thơ. Thậm chí, đã lên đường ngược miền tây theo tiếng gọi của bài thơ, lên miền tây để dạy học, để mang ánh sáng giáo dục đến với núi rừng tây bắc. Năm viết bài thơ này, anh Quốc tròn 18 tuổi.

Nhà thơ Bùi Minh Quốc bên mộ vợ, nhà thơ Dương Thị Xuân Quý

Còn năm học lớp 7 ở trường Học sinh miền Nam, tôi đã được đi thi học sinh giỏi cấp…trường, và bài thơ anh Bùi Minh Quốc là đề thi của chúng tôi. Nói như thế để thấy tôi cũng có chút duyên với thơ Bùi Minh Quốc. Ngày nhỏ, tên khai sinh anh Quốc là Bùi Trường Đa. Tôi không biết anh Quốc lấy bút danh Bùi Minh Quốc từ khi nào, nhưng đọc mấy bài thơ anh viết từ năm 1962, thấy tay bút thơ của anh đã vững rồi. Năm 1967, ở tuổi 27, nhà thơ Bùi Minh Quốc đã tạm biệt vợ anh, nhà văn Dương Thị Xuân Quý, để lên đường vào chiến trường khu Năm ác liệt. Từ năm 1967 tới 1975, anh Bùi Minh Quốc lấy bút danh Dương Hương Ly - tên đứa con gái của anh và nhà văn Dương Thị Xuân Quý. Đó chính thức là bút danh chiến trường của anh Quốc, và rất nhiều bài thơ viết trong những năm ác liệt nhất ở chiến trường Quảng Đà, Quảng Nam, Quảng Ngãi của anh xuất hiện dưới bút danh này. Chúng ta đã đi qua cuộc chiến tranh chống Mỹ gần 50 năm, bây giờ đọc lại những bài thơ trong chiến tranh của Dương Hương Ly, vẫn thấy trào lên niềm xúc động. Với những ai đã đi qua chiến tranh, thật sự cuộc chiến ấy không thể ra khỏi cuộc đời anh (hay chị), nó ám ảnh và soi rọi cho những gì mình sống tới hôm nay. Có một bài thơ của Dương Hương Ly khóc vợ mình - nữ nhà văn Dương Thị Xuân Quý, khi chị Quý trong chuyến đi về vùng sâu nhất, ác liệt nhất ở huyện Duy Xuyên, vào tháng 3 năm 1969, chị đã bị bọn lính đánh thuê Nam Triều Tiên sát hại khi chị phải nằm hầm bí mật trong trận càn kéo dài nhiều ngày của chúng. Bài thơ này là đỉnh cao của thơ chống Mỹ, thơ trong chiến tranh. Thơ khóc vợ hy sinh mà ngùn ngụt ngọn lửa tình yêu vợ chồng, yêu nhân dân, yêu đất nước, một tình yêu lớn lao, khôn nguôi, vò xé tâm can nhưng vô cùng cao cả. Thơ trong chiến tranh của Dương Hương Ly - Bùi Minh Quốc bao giờ cũng mãnh liệt, yêu hết mình và căm giận cũng hết mình. Và trên tất cả, là yêu nhân dân mình, yêu những người mẹ hy sinh cho mảnh đất quê hương, hy sinh không một lời đòi hỏi:

“Mẹ đào hầm từ thuở tóc còn xanh

Nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc

Mẹ vẫn đào hầm dưới tầm đại bác

Bao đêm rồi tiếng cuốc vọng năm canh”

(Đất quê ta mênh mông)

Đọc đoạn thơ này, lại nghe vang lên bài hát phổ thơ cùng tên của nhạc sĩ Hoàng Hiệp, một ca khúc nổi tiếng không kém gì bài thơ. Cả thơ và nhạc đều đi vào bất tử. Khi những người kháng chiến cũ, những người yêu nước Việt Nam, cả những em thế hệ trẻ bây giờ, những ai biết tự hào vì mình là người Việt Nam, trong cuộc mưu sinh nhiều khi hỗn loạn hiện nay, chợt nghe lại, đọc lại bài hát và bài thơ “Đất quê ta mênh mông…”, có cảm giác như mình được an ủi. Sự hy sinh của những thế hệ đi trước, những căn hầm mẹ đào suốt cuộc đời mẹ mang lại cho chúng ta niềm tin rằng đất nước sẽ vượt qua những chặng ất ơ, nhân dân sẽ có cuộc sống bình yên và đỡ khổ cực hơn, và những hy sinh ngày ấy không thể, không hề là vô ích. Thơ Dương Hương Ly - Bùi Minh Quốc trong chiến tranh cho tôi niềm tin ấy, ngay tại thời điểm hôm nay.

Có một bài thơ tình của anh Bùi Minh Quốc gửi một người anh yêu tên là Mai Nhung, tôi đọc mà muốn khóc vì sự chân tình, mộc mạc đến thật thà của bài thơ ấy:

“Em đã đến với đời anh mất mát, bơ vơ

những tháng năm không hy vọng, đợi chờ

và tất cả những gì còn lại chỉ là THƠ

những dòng thơ tinh quái

vừa ngỡ nắm được rồi đã tuột khỏi tay anh

Ôi Mai Nhung ngọn gió trong lành

em từ đâu đến vậy

có phải từ miền quê ấy

vùng đất rất nghèo

mà anh yêu

hơn hết thảy những nơi trù phú khác

Ôi em tôi như ruộng đồng chất phác

phảng phất mùi khoai khô dễ thương

của bữa cơm chiều đạm bạc

mà nghĩa tình đầy đặn thảo thơm”

(Anh nhớ -1972)

Trong chiến tranh vẫn có những tình yêu như vậy, tình yêu luôn gắn kết với quê nhà, với “mùi khoai khô dễ thương”, với những gì bình dị mà xanh thăm thẳm như vầng trăng trong hố bom.

Cuộc đời nhà thơ Bùi Minh Quốc lắm thăng trầm. Bạn tôi, nhà văn Thái Bá Lợi đã nói vui: "Ông Quốc không chỉ đa nguyên, ông còn đa thê nữa. Thôi cũng mừng cho ông". Quả vậy, anh Quốc luôn được những người anh yêu, những người phụ nữ sống với anh, yêu thương anh, nâng đỡ anh, như ngày chiến tranh anh có những "Bà mẹ đào hầm", có cả bao tấm lòng từ những người mẹ già và sau này, cả người vợ mà thơ anh gọi là "mẹ hiền yêu dấu".

Đó là tình yêu thương mà nhà thơ phải suốt đời mang ơn. Như anh đã từng mang ơn nhân dân mình trong chiến tranh. Xin giới thiệu với bạn đọc một bài thơ tình yêu thương anh Bùi Minh Quốc viết ở Đà Lạt, năm anh lên định cư ở xứ sở ngàn hoa này. Và anh Quốc đã gặp ở đó một bông hoa mang tên Hiền Thục, người đã nâng đỡ anh trong nhiều năm tháng không dễ dàng của đời anh:

Anh gặp nơi em mẹ hiền yêu dấu

ban cho anh miền êm ái ngày thơ

Ôi mỗi khi ngả đầu trong em

và ngước lên với mắt em cúi nhìn đôn hậu

toả một trời cổ tích huyền xưa

trái tim anh ầu ơ

lời anh bập bẹ

Đời anh bập bẹ.

(Anh gặp nơi em… - Tháng 9.1988)

Tôi còn nhớ, mùa hạ năm 1987, sau khi dự một cuộc hội thảo về văn học hưởng ứng công cuộc Đổi Mới ở Nha Trang, gia đình tôi đã lên Đà Lạt thăm chơi với anh Bùi Minh Quốc, khi anh vừa nhận chức Chủ tịch Hội Văn nghệ Lâm Đồng. Ở đó, tôi biết và vui vì anh Quốc đã tìm được một tình yêu mới đủ an ủi anh từ ngày đó:

Thăm thẳm miền em mườn mượt cỏ đồi

anh áp mặt

tràn môi

lăn lóc

đất ứa nhựa

ấm nhuyền

từng giọt móc

mườn mượt cỏ đồi

thăm thẳm một em thôi.

(Thăm thẳm miền em… - Tháng 9.1988)

Tôi cứ nhẩn nha đọc những bài thơ từ thời chiến tranh rồi lấn sang hòa bình của anh Bùi Minh Quốc, và xin nói thật, một nhà thơ như thế không bao giờ phản bội lại chính cuộc đời chiến đấu của mình, phản bội lại những người mẹ những người vợ của mình. Tôi đọc lại bài thơ ngắn “Ở đây, ngày hôm qua”, một bài thơ tiên báo về sự xuất hiện của những kẻ đầu hàng trong chiến tranh, những kẻ phản bội trong hòa bình:

Ở đây ngày hôm qua

Vừa có kẻ đầu hàng phản bội

Hắn là huyện uỷ viên

Không ai ngạc nhiên

Cuộc chiến đấu đang hồi quyết liệt

Những thử thách không chừa ai hết

Thước đo lòng trung thành

Không dài hơn cho tôi hoặc ngắn bớt cho anh.

(Rừng căn cứ Đak Nghêu, 12 tháng 9.1970)

Đúng như thế. Thước đo lòng trung thành với nhân dân với Tổ quốc không phải bằng những câu sáo ngữ, mà phải bằng máu của mình trong chiến tranh, bằng sự lương thiện ngay thẳng của mình trong hòa bình. Tôi có nghe chuyện vì bài thơ ngắn này mà anh Bùi Minh Quốc phải bị kiểm điểm tới 3 ngày 3 đêm liền. Cứ làm như trong chiến tranh không có kẻ đầu hàng, và bây giờ, trong hòa bình không có kẻ phản bội (?). Bài thơ là lời cảnh báo nghiêm khắc ngay ở ngày hôm nay, cho tới cả ngày mai. Và tôi xin tạm dừng bài viết đã hơi dài này bằng bài thơ anh Bùi Minh Quốc tặng sông Trà quê hương tôi. Bài thơ này ngay trong thời điểm khốc liệt nhất của cuộc chiến tranh (Mùa hè đỏ lửa - 1972) đã được những người bạn kháng chiến đồng hương Quảng Ngãi với tôi như anh Mai Hoàng, anh Lê Văn Diêu… thuộc nằm lòng, khi anh Bùi Minh Quốc về cùng đội công tác tiền phương với các anh ấy áp sát thị xã Quảng Ngãi, và nhiều lần vượt sông Trà trong đêm.

Ô lạ, sông Trà! Em đấy ư?

Không gian bỗng dịu quá, dường như…

Có cặp mắt nào in đáy nước

Thấm mát hồn ta buổi giã từ.

Tôi đứng như mơ… Bờ bãi đó

Quân thù cày trụi, vẫn đâm chồi

Nghi ngút khói chiều ai đốt cỏ

Bồi hồi luống đất mở tinh khôi.

Đánh trận về, em ra bến tắm

Gội sạch hơi bom khét mái đầu

Ôi nước sông Trà kỳ diệu lắm

Tóc em chiều nay thơm rất lâu.

Dòng sông như thể một người thương

Dày dạn bao năm lửa chiến trường

Mà vẫn tấm lòng trong trẻo ấy

Cho đời ta tìm đến soi gương

Chiều nay ta hát với sông Trà

Gửi tâm tình theo sóng đi xa

Chan chứa niềm vui ngày thắng Mỹ

Sông ơi sông hãy hát giùm ta…

(Hát với sông Trà - Xuân Phổ -

Quảng Ngãi, tháng 3.1972)

Thanh Thảo

Nguồn Văn nghệ số 10/2024


Nguyễn Đình Thi - Thơ Nguyên Hùng

Nguyễn Đình Thi - Thơ Nguyên Hùng

Baovannghe.vn- Sinh ở Lào nhưng là người Hà Nội/ Một nghệ sĩ hào hoa sắc sảo đa tài
Triển lãm nghệ thuật "Sắc màu bừng nở"

Triển lãm nghệ thuật "Sắc màu bừng nở"

Baovannghe.vn - Từ ngày 23/11 đến ngày 15/12/2024, tại Nguyen Art Gallery (Hà Nội), sẽ diễn ra triển lãm tranh màu nước Colors in Bloom - Sắc màu bừng nở của nhóm 6 họa sĩ trẻ.
Yêu người cây mở đất - Thơ Chung Tiến Lực

Yêu người cây mở đất - Thơ Chung Tiến Lực

Baovannghe.vn- Như những mũi lao cắm vào vùng ngập mặn/ Mầm sống gieo trên sóng nước hoang sơ
Nên bị gai đâm - Tản văn của Chu Văn Sơn

Nên bị gai đâm - Tản văn của Chu Văn Sơn

Baovannghe.vn - Và ta cứ yên trí đi qua thế giới này với bước chân quen xéo lên cỏ hoa. Thỉnh thoảng bàn chân nên bị gai đâm, để ta được giật mình: Tổn thương là rỉ máu.
Trịnh Hoài Đức - Nhà thơ, nhà viết kịch tài hoa

Trịnh Hoài Đức - Nhà thơ, nhà viết kịch tài hoa

Baovannghe.vn - Kịch Trịnh Hoài Đức ngoài chất hài ý nhị, sâu cay, cười ra nước mắt còn bao hàm cả triết lý sâu sắc về thế giới quan, nhân sinh quan... Thơ của ông như gieo vào lòng người cái tình sâu lắng, ngôn ngữ giản dị mà nhân văn đa nghĩa đầy tính bác học...