Ma Văn Kháng là cây bút có hai nửa cuộc đời với hai ‘quê hương’ sáng tác: miền núi và miền xuôi. Tuy vậy, trong tuyển tập này, ông còn hiện lên với bút pháp và tầm nhìn đậm tính Tây phương. Điều đó được thể hiện ở nhiều khía cạnh, từ nội dung, đề tài, nguồn tham khảo đến nghệ thuật viết khác biệt. Có thể nói ông là nhà văn không chỉ có số lượng sáng tác đồ sộ ở đa dạng chủ đề mà còn rất cập nhật, từ đó “nhặt” ra những điểm rất riêng cho dấu ấn của mình.
|
Về đề tài, Dấu hiệu của tình yêu có thể được nhìn như những mẩu truyện xoay quanh thất hình đại tội - khái niệm Kitô giáo chỉ ra những tội lỗi lớn nhất của con người, gồm kiêu ngạo, tham lam, dâm dục, nóng giận, tham ăn, ghen tỵ và lười biếng. Trong 2 tá truyện, các nhân vật của ông hiện lên rõ nét cả phần “con” và phần “người”. Có khi một nửa bản thể đi xuyên suốt truyện, tạo nên các mảng đen âm u và sáng rực rỡ, nhưng cũng có khi là cuộc đấu tranh dằng dai khắc nghiệt, mang đến cảm xúc đa dạng khi hai màu sắc đan xen, trộn lẫn vào nhau.
Bằng ngòi bút đậm tính hiện thực, các mối quan hệ thể xác dường như là chi tiết xuất hiện nhiều nhất trong tác phẩm này. Có lẽ bởi ông hiểu đó vừa là chức năng tuyệt diệu của tạo hóa như trời đất sinh sôi, vạn vật nảy nở, nhưng đồng thời ở phía ngược lại, đó cũng là những tội ác không ghê tay dù các nhân vật trực tiếp hay gián tiếp dự phần. Chọn nhan đề cho toàn tập truyện là Dấu hiệu của tình yêu, đây có thể nói là cái tên gần như bao quát toàn bộ nội dung của các cấu phần, cho thấy mọi khía cạnh và khả thể có thể xảy ra xoay quanh hai chữ “tình yêu”.
Trong đây quan hệ xác thịt có thể cứu con người ra khỏi những cảnh huống ngặt nghèo, nhưng cũng đồng thời khởi nguồn cho những tội lỗi. Đơn cử trong truyện Bãi vàng, Thị Nhi 35 tuổi sau khi trả qua những khốn khổ, bị lạm dụng thể xác bởi gã Pào ỷ giàu hiếp yếu đã cùng chàng Giẳng còi cọc, hom hem thua mình một con giáp hại chết tên ấy bằng gan cóc và lá ngón vì “Con chỉ có tình yêu với anh Giẳng thôi!” Bi kịch ấy tuy không tránh khỏi trừng phạt nhưng như Ma Văn Kháng khẳng định, tình yêu là “ngôn ngữ gì mà có khả năng lớn lao và kỳ diệu đến thế! Nó lọt vào rồi ẩn nấp trong tàng thức ta từ lúc nào mà ta không biết. Rồi bất thình lình nó bật ra, nó khơi dậy xúc cảm, nó tạo nên hình ảnh và khái niệm trong ta”.
Nhưng tình cảm và cái đẹp ấy cũng rất dễ bề khiến ta lung lạc, trở thành “con mồi” bị lạm dụng bởi người đàn ông đã có vợ (Một nhan sắc đàn bà), khiến chị em ruột xào xáo (Chị em gái), trở thành nguồn cơn của nhiều đại tội khác, từ ghen tị giữa những người đàn bà với nhau (Gái có con), kiêu ngạo (Khôn ngoan cũng thể đàn bà) cho đến tham lam, bị mờ mắt bởi quyền lực và sức nặng đồng tiền (Dấu hiệu của tình yêu)... Là nhà văn nam nhưng Ma Văn Kháng tỏ ra thấu hiểu những tâm tư tình cảm của người phụ nữ một cách đặc biệt, từ đó phác thảo họ như những nạn nhân đáng thương của những định kiến xã hội và các khuôn mẫu lạc hậu của nhiều thập niên trước.
Vượt khỏi mối quan hệ cá nhân, tác giả cũng chuyển chủ đề sang các biến chuyển xã hội, nhất là giai đoạn đất nước chuyển sang nền kinh tế thị trường. Sự “mở” ấy hiển nhiên là cơ hội cho nước nhà đi lên nhưng cũng không thể tránh khỏi những “con sâu đục khoét”, làm giàu cho bản thân và phương hại đến biết bao con người, bao nhiêu số phận. Trong truyện Chuyện ở phố huyện, Ma Văn Kháng bằng ngòi bút hiện thực đã xây dựng nhân vật Mại xảo trá, lưu manh, đi lên từ một người thợ quăng gạch để trở thành “cánh tay đắc lực” cho các quan chức đương quyền. Và để bao che cho điều ấy, y ta chỉ lý luận suông “Nhân vô thập toàn, các đồng chí ạ. Đừng quá bận tâm về quá khứ. Ta phải sử dụng mặt tích cực của con người” cùng lời bao biện “Nay chấp nhận kinh tế thị trường tức là chấp nhận kẻ ăn rau muống, người ăn thịt bò, các đồng chí ạ”. Qua tác phẩm này, ông đã làm nổi bật những vấn đề vẫn còn tồn đọng trong thời quá độ.
Nhưng không chỉ lợi ích cá nhân từ giàu sang, phú quý, quyền lực cũng là một động cơ khác khiến cho phần “người” hóa thành phần “con”. Ở Thầy Phùng kỳ quặc khác người hay Tổ trưởng tổ dân phố, chính những cơn say quyền lực đã khiến người ta rơi vào đại tội tham lam, kiêu ngạo, lười biếng và không ngần ngại làm ngụy quân tử để triệt tiêu người khác. Thế nhưng may mắn là vẫn còn đó những tấm gương sáng. Đơn cử thầy Phùng là người chính trực bởi sau bao đặt điều, gian trá, thầy vẫn thảnh thơi mà tiếp tục sống. Hay ông Bân - người dám vạch trần sự tham quyền của tổ trưởng tổ dân phố cũng thế. Ông là chính ông bởi dám sống thật với những nghĩ suy mà không rụt rè hay là sợ hãi. Kết cục của họ không khó dự đoán, nhưng có thể nói sự xuất hiện ấy khiến ta yên lòng bởi lẽ cuối cùng thì những giá trị tốt đẹp vẫn luôn hiện diện dù bị dập vùi trong cảnh xấu xa.
Trong truyện Chim trời bay về sau cơn mưa tưởng nhớ cố nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ, nhà văn Ma Văn Kháng cũng dành đầy sự tri ân cho người nghệ sĩ tài hoa bạc mệnh này, người dám nói thẳng nói thật để ta sống đúng với phận sự người. Và motif những người anh hùng ấy sẽ còn nối dài, từ những người ngoảnh mặt quay đi trước sự biến chất (Chuyến xe khách cuối năm) cho đến người chăn bò vùng cao vì để chứng minh bản thân trong sạch, không giết trộm bò mà là bọn sói nanh ác nên đã tình nguyện ở lại vùng cao để chiến đấu được với sinh vật gian ác suốt nhiều thập kỷ (Cỏ cằn)...
Những motif này tuy vậy không một chiều mà đầy phức tạp. Tác giả không “hồng hóa” họ, không xây dựng một khuôn mẫu không tưởng mà phàm là người, họ cũng đôi khi sẽ bị mờ mắt trước khi tìm ra bản ngã chân thật. Ông Ngẫu trong truyện cùng tên là một trong số đó - người từ kiên gan, chính trực, nhưng với sự vận động của đời sống đã nhanh chóng sa ngã, rơi vào “bóng đen” biến chất. Hoa lau bạc, Chuyến xe buýt cuối ngày hay Quê nội cũng cho ta thấy những cảm giác đó, rằng con người luôn chênh vênh giữa hai bến bờ, và một tác động dù là nhỏ nhất cũng có thể khiến một người trở nên xấu đi, dù là già trẻ lớn bé để rồi đáng thương nhất vẫn là những người yêu thương, tin vào khía cạnh thiện lương của họ. Bằng việc khai thác sự biến chất trong cách nghĩ, cách sống, Ma Văn Kháng cũng mang đến cảm giác bất ngờ khi mọi thứ không tuyến tính, đường thẳng, mà cõi đời này cũng đầy bất ngờ và nhiều chờ đón.
Phản ánh hiện thực một cách sát sao nhưng Ma Văn Kháng cũng mang đến dấu ấn cá nhân độc đáo trong các truyện ngắn. Trong những truyện như Mèo con nghịch ngợm, Tội nghiệp một con vẹt già, Thầy Phùng kỳ quặc khác người… ông mượn thiên nhiên như đối tượng ẩn dụ, từ đó châm biếm, giễu nhại những thói đời thường. Những tác phẩm này ít nhiều mang màu sắc ngụ ngôn, mang đến thử nghiệm độc đáo bên giọng văn sắc cạnh, cá tính. Không dừng ở đó, với vốn sống và vốn trải nghiệm ở nhiều vùng đất khác nhau, các truyện ngắn này cũng rất hiện thực.
Tuy đa số truyện được viết từ ngôi thứ 2 và thứ 3, nhưng nhà văn cũng rất tinh ý cho thấy sự hiện diện của bản thân. Những thử nghiệm này như những đảo phách nhạc jazz, cho thấy sự độc đáo trong cả cách viết lẫn những quan điểm trong việc sáng tác. Chẳng hạn trong cuộc hỏi cung Thị Nhi ở Bãi vàng, ông đã chêm vào “Văn chương có điểm rơi của nó. Nó tối kỵ sự giản đơn. Mà những câu chuyện hình sự với sự vận động của ba đỉnh tam giác nhân vật: nạn nhân - hung thủ - người điều tra vốn là điển hình của sự giản đơn lặp đi lặp lại” như một đúc rút về cấu trúc văn chương. Trong Chuyện ở phố huyện ông cũng cho thấy điều đó khi nói rằng: “Mại xuất hiện trở lại giữa thanh thiên nơi phố huyện như để chứng minh cho sự chính xác của quy tắc lịch sử và của cấu trúc nghệ thuật ở các tác phẩm văn chương: nhân vật bao giờ cũng phải xuất hiện hai lần; lần thứ nhất là một kẻ anh hùng, lần thứ hai là một thằng hề hoặc ngược lại”...
Qua Dấu hiệu của tình yêu, nhà văn Ma Văn Kháng bằng nghệ thuật viết riêng biệt và vốn sống phong phú đã họa lại những mảng sáng - tối phân tranh, qua đó gửi gắm bài học ý nghĩa về việc sống chân thành và chân thành sống.