Diễn đàn lý luận

Tố Hữu – Thơ và những ngày tháng trong ngục tù đế quốc

Lý luận phê bình
06:28 | 09/10/2020
Nhà thơ, nhà cách mạng Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại làng Hội An, nơi xưa kia thường gọi là Faifô thuộc tỉnh Quảng Nam; quê nội Kim Thành ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Sở dĩ Kim Thành sinh ra tại Hội An vì lúc ấy thân phụ ông là một nhà Nho có biết Tây học nên vào làm phiên dịch ở Tòa sứ Quảng Nam. Từ nhỏ cho đến năm 9 tuổi, Kim Thành sống và học hai năm đầu tiểu học ở Hội An
aa

KỶ NIỆM 100 NĂM NGÀY SINH NHÀ THƠ TỐ HỮU (4/10/1920 – 4/10/2020)

Nhà thơ, nhà cách mạng Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại làng Hội An, nơi xưa kia thường gọi là Faifô thuộc tỉnh Quảng Nam; quê nội Kim Thành ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Sở dĩ Kim Thành sinh ra tại Hội An vì lúc ấy thân phụ ông là một nhà Nho có biết Tây học nên vào làm phiên dịch ở Tòa sứ Quảng Nam. Từ nhỏ cho đến năm 9 tuổi, Kim Thành sống và học hai năm đầu tiểu học ở Hội An. Vào năm 1929, thân phụ của Kim Thành nhận một công việc của Nam triều nên lại chuyển ra Huế ở*, cả gia đình ông sống nhờ nhà của một bà cô trong Thành nội. Thời gian này Kim Thành vào học lớp ba Trường Tiểu học Paul Bert (Pôn Be). Năm 1931, thân phụ của Nguyễn Kim Thành xin chuyển việc vào Phan Thiết, người anh cả thi đỗ ngành bưu điện được tuyển vào làm ở Đà Nẵng, nên Kim Thành cùng mẹ lại phải vào ở với người anh cả, theo học lớp nhì. Qua năm 1932, giữa kỳ nghỉ hè thì mẹ Kim Thành mất, lúc ấy bà mới 47 tuổi. Sống xa cha, sớm mất mẹ, may nhờ được mấy người anh chăm lo nên Kim Thành có điều kiện theo lên được lớp nhất. Năm 1933, Kim Thành thi đỗ đầu Tiểu học ở Đà Nẵng. Sau nhờ người anh cả thu xếp cho Kim Thành ra Huế, tiếp tục theo việc đèn sách. Cuối năm 1934, Kim Thành thi vào năm Đệ nhất Trường Khải Định (Trường Quốc Học ngày nay).

Nhà thơ Tố Hữu (Trái) và Đại tướng Nguyễn Chí Thanh

Về lại Huế, Nguyễn Kim Thành lúc này đã 14 tuổi, ông bắt đầu nhận ra những đổi thay của xã hội. Qua sách báo, anh biết được, phong trào Mặt trận Bình dân Pháp lên cao, lập được chính phủ mới, có nhiều nét tiến bộ. Ở Việt Nam, Mặt trận Dân chủ do Đảng Cộng sản Đông Dương khởi xướng, hoạt động ngày càng sôi nổi, đang dần đi vào quần chúng. Thành phố Huế cũng bừng lên không khí rầm rộ. Ngay trong trường Khải Định người ta đã thấy rải rác có truyền đơn cộng sản và thông tin lan truyền về những nhà ái quốc vốn học sinh của trường này như Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Khoa Văn, Võ Nguyên Giáp... đã tác động tích cực đến ý thức cũng như nhận thức của Kim Thành trước thời cuộc đang diễn ra.

Năm 1935, Kim Thành vào học năm thứ hai, cũng là lúc nhiều nhà hoạt động cách mạng được trả tự do như Nguyễn Chí Diểu, Phan Đăng Lưu, Lê Duẩn… từ Côn Đảo về lãnh đạo phong trào. Hải Triều Nguyễn Khoa Văn bị án tù ở Sài Gòn, được thả, ông trở về Huế, liền mở hiệu sách Hương Giang để làm vỏ bọc hoạt động bí mật và tuyên truyền cách mạng... Nhờ những cơ sở bí mật và cán bộ hoạt động ở đây cung cấp mà Kim Thành có điều kiện tiếp xúc được với các sách báo về cộng sản, nhận được nhiều thông tin về đường lối cách mạng, về phong trào công nhân quốc tế; nhờ những người như Lê Duẩn, Hải Triều, Nguyễn Chí Diểu dìu dắt, dần dần ông giác ngộ chủ nghĩa cộng sản. Chính vì những điều này mà Kim Thành bị đuổi khỏi khu nội trú, bị cắt học bổng. Ông nhận làm gia sư cho một gia đình ở xóm nghèo gần Đập Đá. Ở đây, Kim Thành lại có điều kiện gặp gỡ và thường lui tới với đồng chí Bùi San, một cán bộ cao cấp của Đảng có cơ sở ở xóm Chợ Cống; rồi từ đồng chí Bùi San, Nguyễn Kim Thành tiếp xúc được với đồng chí Phan Đăng Lưu, lúc bấy giờ là Ủy viên Trung ương Đảng được phân công hoạt động công khai, phụ trách tờ báo Dân của Xứ ủy Trung kỳ. Và Phan Đăng Lưu cũng chính là người thầy đầu tiên hướng ông vào dòng thơ cách mạng.

Tháng 3 năm 1937, sau cuộc tuần hành rầm rộ của hàng vạn quần chúng Thừa Thiên đi đón Gô đa phái viên của Chính phủ Pháp, để đòi những quyền dân chủ, dân sinh, Kim Thành được tổ chức cử làm Bí thư Đoàn thanh niên Dân chủ thành phố Huế. Tháng 4 năm 1937, Kim Thành được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương; trở thành đảng viên nhưng ông vẫn tiếp tục theo học ở trường Quốc Học và bí mật hoạt động cộng sản. Giữa năm học 1938, Kim Thành thi đỗ Thành chung, được nghỉ mấy ngày ông liền tranh thủ sang Lào thăm người anh trai thứ. Ở Lào, ông may mắn gặp được một cụ đồ Nho người Quảng Bình. Sau cuộc trò chuyện và đọc thơ cho cụ đồ Nho nghe; cụ cảm phục ý chí và liền cho nhà thơ trẻ hai chữ “Tố Hữu” để làm bút danh, hai chữ ấy cụ lấy ý nằm trong câu chuyện Khổng Tử gặp Hạng Thác, khi ngài nhận xét Hạng Thác rằng “Ngô nhi tố hữu đại chí” nghĩa là “trẻ ta sẵn có chí lớn” cụ có ý thầm khen Kim Thành. Nhưng Kim Thành lại xin cụ được giải thích sang nghĩa khác: Tố là trong trắng, Hữu là bạn. Hai chữ Tố Hữu với nghĩa là “Người bạn trong trắng”. Từ đây bút danh “Tố Hữu” gắn liền với sinh mệnh cuộc đời nhà thơ, nhà cách mạng được nhiều người biết đến hơn cả tên thật Nguyễn Kim Thành. Thời gian này Tố Hữu làm nhiều bài thơ đăng trên báo Dân ở Huế, báo Thế giới ở Hà Nội và bài Từ ấy đã ra đời.

Ngoài ra, Tố Hữu còn có bí danh là Lành thì mãi cuối năm 1942, khi vượt ngục về hoạt động ở Hậu Lộc, Thanh Hóa, tại nhà mẹ Tơm mới có tên này. Lành - cái bí danh ông thường dùng hàng ngày theo nghĩa thân mật cho đến lúc “qua bên kia bầu trời”.

Tố Hữu đang học năm thứ nhất ban Tú tài ở trường Quốc Học và bí mật hoạt động thì đầu năm 1939, ông được cử vào Thành ủy Huế, phụ trách tuyên truyền và thanh niên. Trên cương vị mới của mình, ông thường tổ chức các hoạt động, diễn thuyết ở một số huyện như Hương Trà, Hương Thủy về các ngày Quốc tế Phụ nữ 8/3, Quốc tế Lạo động 1/5, Cách mạng tháng Mười Nga 7/11... để tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản... Nhưng những hoạt động tuyên truyền cộng sản của Tố Hữu không qua khỏi sự theo dõi của mật thám Pháp và Nam triều, chúng quyết định bắt ông.

Sáng sớm ngày 27 tháng 4 năm 1939, mật thám Pháp ập vào phòng, ngay tại nơi mà ông đang ở làm gia sư trong xóm Chợ Cống, còng tay bắt đưa đi, lúc bấy giờ Tố Hữu mới 19 tuổi. Chúng giải Tố Hữu tới nhà lao Thừa Phủ, giam vào một xà lim riêng.

Trước đó, vào tối ngày 12 tháng 7 năm 1939, Nguyễn Vịnh, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên, đã bị mật thám theo dõi, bắt tại bên kia cầu Trường Tiền. Hai hôm sau chúng mới giải Nguyễn Vịnh và một số người khác bị bắt mấy hôm trước vào lao Thừa Phủ.

Bấy giờ, Tố Hữu đã bị giam ở nhà lao Thừa Phủ được hơn hai tháng, đến ngày 14 tháng 7 năm 1939, Tố Hữu thấy lính dẫn vào phòng một người rắn rỏi, nước da nâu, mắt sáng, mặt vuông chữ điền. Tố Hữu nhận ra đó là Nguyễn Vịnh (sau này có tên là Nguyễn Chí Thanh).

Mặc dù khi chúng đem ra xử, Nguyễn Vịnh không nhận bất cứ “tội” nào mà bọn mật thám buộc cho ông, tòa án Nam triều ở tỉnh Thừa Thiên vẫn kết án ông hai năm tù giam. Tại phiên tòa này, Tố Hữu cũng lãnh án hai năm tù giam như Nguyễn Vịnh và ba đồng chí khác. Theo lệ trong tù, những người đã lãnh án, được ở chung phòng rộng. Việc này lại giúp cho tù nhân có điều kiện trao đổi thông tin, tổ chức sinh hoạt chính trị, văn hóa. Tố Hữu được phân công tổ chức cho anh em học chính trị, văn hóa và cả chữ Pháp. Tố Hữu say mê làm thơ, ở trong tù đêm nào cũng nhẩm từng câu chữ, sửa đi sửa lại thành bài. Mấy ngày sau, Tố Hữu đã viết xong bài Nhớ đồng đề tặng Nguyễn Vịnh.

Gì sâu bằng những trưa thương nhớ

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi

Đâu ruồng che mát thở yên vui

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?...

Tố Hữu và Nguyễn Vịnh bị giam chung một phòng. Một hôm, giữa tháng 8 năm 1939, địch bắt được đồng chí Lê Chưởng (người Quảng Trị), Xứ ủy viên Trung kỳ. Chúng đánh rất ác. Nếu những trận đòn này kéo dài có thể Lê Chưởng sẽ bị chết. Trước tình hình ấy, để bảo vệ Lê Chưởng, Nguyễn Vịnh bàn với chi bộ nhà tù là phải tổ chức đấu tranh. Thế là một kế hoạch cụ thể được vạch ra: Cứ sau khẩu lệnh: Một hai ba! Những tù nhân lại đồng thanh la to: “Chống khủng bố! Chống tra tấn! Chống đánh đập tù nhân! Bảo vệ Lê Chưởng!”… Tiếng la rất lớn, làm náo động dư luận cả thành phố Huế. Địch hoảng hốt đối phó… Sau ba ngày, tuy một số đồng chí bị thương, nhưng thấy tù nhân quá kiên quyết, ngoài phố dư luận quần chúng ồn ào quá nên địch phải chùn tay. Cuộc đấu tranh của tù nhân tại nhà lao Thừa Phủ đã thắng lợi, nhưng bọn cai ngục rất cay cú. Chúng liền đem mấy anh em mà chúng gọi là “đầu sỏ” ra tòa xử, tuyên án mỗi người phải lĩnh thêm sáu tháng tù và đày đi Lao Bảo. Những tù nhân này gồm Nguyễn Vịnh, Hoàng Anh, Lê Thế Tiết, Tố Hữu và một đồng chí nữa

Tố Hữu viết: trong Hồi Ký: “Đến nhà đày Lao Bảo vào một ngày thời tiết đang chuyển sang đông, sau khi cụ Phan Bội Châu đã qua đời”. Còn trong cuốn Nhà đày Lao Bảo thì ghi Tố Hữu được chuyển đến tháng 9 năm 1940.

Ở Lao Bảo cũng như ở nhà lao Thừa Phủ, những người tù chỉ được ăn cơm hẩm với cá thối. Nhưng cái khác ở Huế là phải đi làm khổ sai. Chân luôn bị xiềng, kể cả khi đi làm… Một ngày cuối năm 1940, bọn cai ngục phát hiện ra một điều gì đó trong lá thư nhà gửi cho đồng chí Lê Thế Tiết (Bí thư Tỉnh ủy Quảng Trị). Tên Đồn liền gọi ông lên và đánh đá rất dã man. Đồng chí bị một quả đấm quá mạnh, ngã đập đầu vào một góc bàn, vỡ sọ chết ngay tại chỗ.

Tất cả anh em nhà tù họp ngay, bàn kế hoạch đấu tranh quyết liệt. Nhưng đấu tranh thế nào để giảm tổn thất và có hiệu quả. Chi bộ nhà tù Lao Bảo quyết định tất cả anh em tuyệt thực và cả tuyệt ẩm (nhịn uống). Chủ trương đưa ra được toàn bộ anh em nhất trí. Tù thường phạm cũng hưởng ứng bằng cách hò la. Ngay từ ngày đầu, bọn cai ngục đàn áp quyết liệt. Chúng đánh bằng roi và báng súng rất dữ nhưng anh em vẫn kiên trì, quyết không lùi bước. Tố Hữu kể lại: “Có điều lạ là đến lúc sức kiệt, tôi cảm thấy đầu óc vẫn tỉnh táo. Có lẽ do bản thân và có cả tập thể bên mình nên tinh thần mới được thế”.

Cuộc tuyệt thực đến ngày thứ 10, tên Đồn vào nhà giam. Tố Hữu là người biết tiếng Pháp nên thay mặt anh em phản đối, lên án việc chúng tra tấn đánh đập tù nhân, đòi phải hủy bỏ ngay chế độ độc ác của nhà đày. Bọn cai ngục liền tách những người mà chúng cho là “đầu sỏ” nhốt vào xà lim biệt giam. Tố Hữu vẫn phải tiếp tục cùng anh em tuyệt thực. Cuộc tuyệt thực kéo dài 14 ngày, đói lả, nhưng anh em tù không chùn bước. Nhờ quần chúng tốt ủng hộ, tin tù nhân Lao Bảo tuyệt thực, có nguy cơ chết, đã dội về Kinh thành Huế, gây tiếng vang trong dư luận. Đó là khoảng tháng 11 năm 1940, địch chưa dám khủng bố trắng, nên chúng phải chùn tay. Cuộc đấu tranh của tù nhân Lao Bảo đã hoàn toàn thắng lợi. Địch tuyên bố không đánh đập nữa, chúng cho nhận thư từ, cho ăn cơm tử tế. Nhưng năm người gồm: Nguyễn Vịnh, Hoàng Anh, Tố Hữu và hai đồng chí nữa lại bị đày đi Buôn Ma Thuột.

Tố Hữu bị giam ở nhà tù Buôn Ma Thuột khoảng ba tháng. Ở nhà ngục này, Tố Hữu gặp được các đồng chí Hồ Tùng Mậu, Trương Văn Lĩnh, Chu Văn Biên, Ngô Đức Đệ và nhiều đồng chí lớp trước. Lúc đó mọi người mới biết rõ Nam kỳ đã có cuộc khởi nghĩa nổ ra. Những tù nhân mới vào được nghe kể lại những tấm gương hy sinh oanh liệt của các đồng chí Trung ương: Nguyễn Văn Cừ, Hà Huy Tập, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần, Nguyễn Thị Minh Khai, nhiều đảng viên cộng sản và quần chúng trung kiên, mọi người rất đau lòng và càng lo lắng cho vận mệnh của Đảng lúc này. Khởi nghĩa Nam kỳ vì một chút manh động mà trong thời gian ngắn đã mất hầu hết bộ máy lãnh đạo. Đây cũng là bài học quý giá cho những người hoạt động cộng sản suy tính về sau trong các cuộc đấu tranh với kẻ thù.

Đến tháng 4 năm 1941, Tố Hữu mãn hạn tù hai năm theo án xử ở Huế. Chúng giải ông về Huế, lại tống vào nhà lao Thừa Phủ. Qua 5 ngày bị giam ở Thừa Phủ, thấy tiếp tục bị giam, Tố Hữu chất vấn bọn cai ngục: “Tôi mãn hạn tù rồi, sao các ông không thả?”. Viên cai ngục nói: “Anh còn sáu tháng tù tăng án ở lao Thừa Phủ, đó là chưa kể ở Lao Bảo. Giờ thì đi an trí đã rồi xử sau!”.

Mấy hôn sau, chúng đưa ông lên ga Huế, đi bằng tàu hỏa, giải vào Quy Nhơn, tạm giam mấy ngày. Ở nhà tù Quy Nhơn, viên cai ngục cho Tố Hữu biết “Anh sẽ đi lên trại tập trung Đăk Glei ở phía bắc Kontum”. Thế là rõ một án tù không thời hạn.

Tại nhà đày Đăk Glei, chốn ma thiêng nước độc, hoang vu và lạnh giá, Tố Hữu gặp các đồng chí của mình đang bị giam trước ở đây, như Lê Văn Hiến, tác giả cuốn sách Ngục Kon Tum nổi tiếng từ 1936, Huỳnh Ngọc Huệ, người thợ máy học trường Bách nghệ ở Huế sinh hoạt cùng chi bộ với Tố Hữu năm 1937...

Tố Hữu ở Đăk Glei mới hơn một tháng, thì có lệnh phải về gấp “trả nợ” sáu tháng tù tăng án, vì cái tội đấu tranh lúc trước ở nhà lao Huế. Thế là ông lại bị chúng nhốt vào nhà tù Quy Nhơn một lần nữa, nhưng lần này dài hơn.

Ở Quy Nhơn, Tố Hữu có bạn tù mới, bị giam ở xà lim bên cạnh. Đó là đồng chí Lung, một anh thợ điện vừa bị bắt mấy tuần trước. Và cứ mỗi lần được ra sân chơi, Tố Hữu thường chủ động gặp Lung để thảo luận về tình hình và “hâm nóng” lòng tin cách mạng cho nhau. Theo Tố Hữu, thời gian bị giam ở đây ông viết khá nhiều bài thơ. Và cũng có nhiều bài đã thất lạc.

Ở nhà ngục Quy Nhơn, hàng đêm, Tố Hữu thường nghe một tiếng rao của một em bé gái: “Ai ăn bánh lộc lọc không?” Tiếng nó rao nhỏ yếu, nghe mà thương quá... Một buổi sáng dậy, bỗng nghe anh Lung gọi sang xà lim của Tố Hữu: “Này, tối qua, mi có nghe con nhỏ mô rao bán bánh không?” Tố Hữu đáp: “Ừ, đêm nào cũng nghe nó rao ngoài tường nhà lao, như để hỏi mình có mua không, thật tội nghiệp!”. Bỗng nhiên Lung cười to mà như một tiếng nấc: “Con gái út của tao đó, mới tám tuổi mà đêm nào cũng phải mang bánh đi bán cho mẹ. Hắn biết tao ở trong này nên cố ý rao to cho tao nghe đó. Có đứt ruột không chớ!”. Tố Hữu nghẹn cổ, ứa nước mắt, nhưng cũng gắng nói một lời với bạn tù: “Đời còn khổ lắm, Lung ơi, nên phải làm cách mạng chớ sao!”.

Theo Tố Hữu, bài thơ Một tiếng rao đêm được viết trong hoàn cảnh ấy.

Ai ăn bánh bột lọc không?

Tiếng rao sao mà ướt lạnh tê lòng!

...

Trên môi mỏng hãy thơm mùi sữa mẹ

Tiếng rao nhỏ của một em gái bé

Không vang lâu, chỉ vừa đủ rao mời

Mà giọng còn non quá, yếu dần hơi

Nên cái bánh nửa chừng ra cái “bén”...

Ngoài những bài thơ đã công bố, thời gian bị giam ở nhà ngục Quy Nhơn, Tố Hữu có thêm bài thơ Lòng thợ đề tặng Lung viết vào tháng 10 năm 1941. Sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, bài thơ này được in trên báo Tay Thợ, số Tết Bính Tuất 1946, do Cơ quan tuyên truyền tranh đấu của công nhân Việt Nam Trung Bộ, xuất bản tại Huế, Huỳnh Ngọc Huệ làm chủ bút, mà chúng tôi đã giới thiệu ở trên. Lúc bấy giờ Tố Hữu đang làm Phó Bí thư Xứ ủy Trung bộ, đóng tại Huế…

Tố Hữu bị giam ở nhà ngục Quy Nhơn, vừa “trả nợ” xong sáu tháng tù tăng án thì lại bị giải lên nhà ngục Đăk Glei. Khoảng tháng 12 năm 1941, trên chiếc xe tải bịt bùng, chúng chở Tố Hữu lên phía bắc Kontum như lần trước.

Đến trại tập trung, Tố Hữu gặp lại bác Lê Văn Hiến và mấy anh bạn cũ, dù là tù tội nhưng không khí lúc ấy rất vui. Lại có thêm hai đồng chí mới vào đây: Chu Huy Mân và Nguyễn Duy Trinh, đều là các vị “bô lão” xứ Nghệ mình. Các đồng chí cho Tố Hữu biết thêm tình hình mới về Liên Xô, về bọn phát xít Đức... Còn tình hình trong nước thì ngày càng gay go. Bọn Nhật vẫn ngồi trên đầu bọn cai trị Pháp và Nam triều, cướp bóc, giết người man rợ. Nhưng điều mừng nhất là cụ Nguyễn Ái Quốc đã về nước, ở đâu đó và đã phát lời “Hiệu triệu cứu nước” gửi đồng bào toàn quốc. Thế cách mạng đã có ngọn cờ lãnh đạo đầy uy tín đối với cả dân tộc. Lúc này, địch càng khủng bố ác liệt, bắt giam bất cứ ai có chút lòng yêu nước. Cán bộ, đảng viên vào chật các nhà tù, chỉ còn một số ít hoạt động bí mật. Tình thế này thì phải bằng mọi cách, xây dựng cơ sở ở mọi nơi, nhất là vùng nông thôn, địa bàn rừng núi. Phải vượt ngục thôi.

Tố Hữu bàn với Huỳnh Ngọc Huệ, người bạn thân cũ: “Mày với tao về Quảng Nam, Thừa Thiên. Tìm lại các mối rồi gây dựng dần phong trào”. Huệ đồng ý ngay. Tố Hữu hỏi ý kiến Chu Huy Mân và Nguyễn Duy Trinh. Các đồng chí đều tán thành...

Ngày 14 tháng 3 năm 1942, Tố Hữu và Huỳnh Ngọc Huệ cứ tự nhiên ra bờ suối đi làm như thường lệ. Rồi lặng lẽ lẩn trốn vào rừng sâu. Và cứ như thế, vừa đi vừa dò đường, vừa canh chừng bọn địch, nhắm hướng Quảng Nam mà tiến. Sau mấy ngày đến làng Rô, rồi vượt qua nhiều địa bàn có đồn địch đóng, nhờ được nhân dân che chở, hai ông đã thoát vòng vây của mật thám. Sau gần cả tháng trời hai người mới về tới Đà Nẵng. Để đảm bảo an toàn, từ đây, chia tay, Tố Hữu đi theo một hướng, Huỳnh Ngọc Huệ theo một hướng khác (nhưng không may, Huỳnh Ngọc Huệ bị sốt nặng, phải vào bệnh viện nên bị bọn chúng nhận ra và bắt lại), Tố Hữu trở về bắt liên lạc, gây dựng cơ sở ở Huế, Quảng Trị, Đồng Hới, rồi ra hoạt động ở Thanh Hóa, Hà Nội, lên Việt Bắc...

Cuối năm 2016, chúng tôi có dịp trở lại Kon Tum. Nhờ ngành văn hóa và bạn bè ở đây giúp đỡ, chúng tôi đến thăm các di tích nhà ngục, nơi từng giam giữ những chiến sĩ cộng sản. Người vừa dẫn đường vừa kể chuyện cho chúng tôi là nhà thơ Tạ Văn Sỹ, ở Hội Văn nghệ Kon Tum, trong câu chuyện về thơ Tố Hữu, anh khoe mới tìm ra được một trong những bài thơ “thất lạc” của Tố Hữu viết tại Đăk Glei. Bài thơ có tên Ân hận.

Bài thơ này do nhà báo lão thành Đoàn Bá Từ, một cựu tù ở Đăk Glei cùng thời với Tố Hữu “lưu giữ” bằng trí nhớ. Ông Đoàn Bá Từ cho biết, bài thơ này tự tay Tố Hữu chép đưa cho ông để “đăng” vào tờ báo do tù chính trị phạm thực hiện tại ngục Đăk Glei. Những số báo viết tay “xuất bản” ở đây đều do Đoàn Bá Từ kỳ công chép tay trên 6 trang giấy rồi đóng tập, chuyền nhau đọc. Do vậy, mọi người có bài đều phải đưa cho Đoàn Bá Từ để chép vào trang báo. Nhiều năm sau này, nhà báo Đoàn Bá Từ cứ thắc mắc không hiểu tại sao trong các tập thơ của Tố Hữu lại thiếu bài Ân hận này. Chính vì thế ông mới ghi lại và cho công bố. Bài thơ có những câu như:

Tôi muốn đưa em tới Lớp trường

Vở đời em sẽ ghép thêm trương

Hồn tôi lưu luyến nương trong đó

Sáng tợ gương và phảng phất hương...

*

Việc ra báo ở nhà ngục Đăk Glei được Lê Văn Hiến viết trong Trở lại Kontum như sau: “Trong trại, chúng tôi ra hai tờ báo; một tờ do anh em ở phòng dưỡng bệnh xây dựng lấy tên là La-za-rê... và một tờ lấy tên Chàng Làng... Ngày Tết anh em ra tạp chí Mùa Xuân... Tòa soạn gồm có những anh em như Hà Thế Hạnh, Lê Nhu, Đoàn Bá Từ, Nguyễn Trọng Vĩnh, về sau có thêm đồng chí Tố Hữu và Huỳnh Ngọc Huệ... Các tờ báo phản ánh khá trung thực sinh hoạt của trại và đã góp một phần quan trọng vào việc giáo dục, giải trí cho anh em”.

Ở một đoạn khác Lê Văn Hiến viết: “Sáng mồng 4 tháng 6 năm 1942 chúng tôi lên đường từ Đăk Glei để tới Đăk Tô... Để đề phòng địch lục soát tài liệu lợi dụng những sơ hở để phản công, ngay trong đêm ấy anh em nhất trí hủy tất cả giấy tờ, văn bản, không giữ lại một mảnh giấy, sợ địch vin cớ khủng bố. Ngoài số tài liệu ra, chúng tôi tiếc nhất là tập thơ của Tố Hữu cũng phải hủy”.

Hay như trường hợp Tố Hữu làm thơ ở đây, Lê Văn Hiến viết: “Chúng tôi tổ chức những chuyến đi như những nhà thám hiểm. Một lần gặp một thác nước rất đẹp, Tố Hữu có làm bài thơ “Thác lụa”. Lần khác lại gặp một thác nước khác ba bậc đổ từ trên cao xuống, nhà thơ lại cho ra đời bài thơ “Dưới dòng thác đổ”. Tiếc rằng hai bài thơ này đến nay không còn được lưu giữ”.

Thêm nữa, Tố Hữu có bài thơ tứ tuyệt Hôm nay, in trên tạp chí Đại Chúng (bộ mới), Cơ quan Văn hóa Cứu quốc Trung bộ, xuất bản tại Huế, số ra ngày 1/4/1946. Theo giọng điệu thì bài thơ này Tố Hữu viết sau Cách mạng tháng Tám. Chúng tôi lục tìm trong các tập thơ của Tố Hữu đã xuất bản nhưng không có, ngay cả Toàn tập thơ Tố Hữu (Nxb Văn học, Hà Nội, 2011), cũng không thấy bài này. Có lẽ chính Tố Hữu không nhớ, hoặc chưa ra là đã in ở đâu?

Nhân dịp này, chúng tôi xin công bố lại bài thơ Hôm nay.

Hôm nay có những tay già

Run run vịn cánh con ra dưới cờ.

Bóng cờ đỏ tóc bạc phơ,

Chiều nghiêng xuống núi còn mơ sao vàng.

Nghiên cứu và tiếp tục nghiên cứu về nhà cách mạng Nguyễn Kim Thành - nhà thơ Tố Hữu trong những năm tháng hoạt động cách mạng bị kẻ thù giam cầm, theo tôi, ở ông có hai tư cách lớn đều như nhau. Tư cách nhà cách mạng và tư cách nhà thơ. Với Tố Hữu thì hai tư cách ấy luôn hòa quyện với nhau làm một, vì thơ Tố Hữu chính là thơ ca cách mạng, một nguồn sinh khí cách mạng đã nâng đỡ, tiếp sức thêm cho nhiều người bị giam cầm trong ngục tù đứng dậy, nhiều người còn đang “ngơ ngác” ở ngã ba đường đã đến với cách mạng một cách tự nguyện, tin ở ngày mai sẽ chiến thắng.

Nhiều năm sau này, chiến sĩ cách mạng Phan Thị Nẻ, phu nhân của nguyên Chủ tịch nước Võ Chí Công từng khẳng định với nhiều người một cách chân thành rằng: “Tôi lúc còn trẻ chẳng hiểu mô tê gì về Việt Minh, về Cách mạng. Nhưng đọc thơ anh Tố Hữu là đi tôi theo cách mạng, đi làm cách mạng”.

Xưa nhiều người đã khẳng định, nay chúng tôi xin nhắc lại, Tố Hữu là nhà cách mạng xuất sắc, nhà thơ lớn của dân tộc, ông mãi mãi là con chim đầu đàn của nền thơ ca cách mạng Việt Nam.

________

* Tố Hữu, Nhớ lại một thời (Hồi ký), Nxb. Văn hóa Thống tin, 2002, tr. 8.

Nguồn Văn nghệ số 41/2020


Bức chân dung quý hiếm của danh họa Caravaggio lần đầu xuất hiện trước công chúng

Bức chân dung quý hiếm của danh họa Caravaggio lần đầu xuất hiện trước công chúng

Baovannghe.vn - Caravaggio, thiên tài nghệ thuật Baroque Ý, nổi tiếng với kỹ thuật chiaroscuro và những tác phẩm đầy sức sống, nay lại một lần nữa khuấy động giới nghệ thuật toàn cầu. Lần đầu tiên sau 60 năm kể từ khi được xác thực, bức chân dung "Monsignor Maffeo Barberini" của ông sẽ được trưng bày tại phòng trưng bày Palazzo Barberini, Rome, từ ngày 23 tháng 11 năm 2024 đến ngày 23 tháng 2 năm 2025. Đây là một sự kiện quan trọng, không chỉ đối với các nhà nghiên cứu nghệ thuật mà còn với công chúng yêu nghệ thuật.
Thu mơ - Thơ Cao Lê Hồng Rạng

Thu mơ - Thơ Cao Lê Hồng Rạng

Baovannghe.vn- Em về chạm ngõ chiêm bao/ Nghiêng vai trút hết chênh chao nửa đời
Bàn thêm về bài thơ "Tây tiến" của Quang Dũng

Bàn thêm về bài thơ "Tây tiến" của Quang Dũng

Baovannghe.vn - Ngày nay, đọc lại bài thơ Tây tiến của nhà thơ Quang Dũng, người đọc như được sống lại không khí hào hùng không thể nào quên của một thời kỳ lịch sử, mang theo cả tâm hồn đẹp đẽ, trong sáng của một thế hệ người lính xả thân để bảo vệ non sông.
Giọt mồ hôi trên lưng cha. Tản văn của Nhã Anh

Giọt mồ hôi trên lưng cha. Tản văn của Nhã Anh

Baovannghe.vn - Khi chúng ta còn bé, chúng ta cứ mặc nhiên nhận sự chăm sóc ân cần, cơm đủ bữa, quần áo thơm tho… Mặc nhiên nhận sự bao bọc, chở che, còn cha mẹ thì lại hạnh phúc khi được lo lắng, quan tâm, chăm chút cho chúng ta.
Trở lại với bài thơ "Đây thôn Vỹ Dạ" của thi sĩ Hàn Mặc Tử

Trở lại với bài thơ "Đây thôn Vỹ Dạ" của thi sĩ Hàn Mặc Tử

Baovannghe.vn - Bài thơ Đây thôn Vỹ Dạ dệt thành một bức tranh trong mộng, không gian đa sắc, đa chiều đan xen giữa hiện tại và ký ức. Ý, tình khúc chiết, sâu xa. Dù rằng tình thơ được rút trong tập Thơ điên, nhưng nó không những không phải là thơ điên... mà còn là một tình thơ đằm thắm chứa chan, trái tim của nhà thơ đã thấm đầy huyết lệ!