Sau cách mạng, quá trình hội nhập của người Hoa vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam được phát triển nhanh. Người Hoa không những hòa nhập vào cuộc sống đời thường làm ăn buôn bán với người Kinh, Chăm, Khơme, mà còn hòa nhập về chính trị - văn hóa với cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trở thành công dân Việt Nam và thành viên của cộng đồng. Tác giả Nghị Đoàn, trong bài viết “Văn hóa người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh và Đông Nam Bộ” cho biết riêng Đông Nam Bộ có khoảng 630.000 người Hoa. Người Hoa ở Đông Nam Bộ đa phần là người Hán ở các tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến, Hải Nam (Trung Quốc) di cư tới, làm ăn sinh sống và định cư từ nhiều thế kỷ qua.
Trong nghiên cứu về tộc người, Vương Xuân Tình khẳng định ý nghĩa của việc nghiên cứu quan hệ dân tộc, là mối quan hệ giữa các tộc người trong một quốc gia và xuyên quốc gia, và mối quan hệ giữa tộc người với cộng đồng dân tộc - quốc gia trên nhiều lĩnh vực như chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa... Theo thời gian mặc dù có những biến chuyển nhất định nhưng xu thế chung của mối quan hệ này vẫn là sự gắn bó, đoàn kết giữa các dân tộc.
Sự trưởng thành thống nhất trong đa dạng của văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số kể từ sau cách mạng đã tạo nên một gương mặt riêng trong nền văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại. Điều này đến từ sự đa dạng của tộc người trong nền văn hóa Việt Nam cùng với chính sách tôn trọng đặc sắc văn hóa. Bước sang thế kỷ XXI, có rất nhiều lợi thế để văn học nghệ thuật dân tộc thiểu số sau 1975 phát triển lớn mạnh như: Thứ nhất, các chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề dân tộc, vấn đề văn hóa đã được nêu ra từ rất sớm và ngày một điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn phát triển; Thứ hai, sự phong phú và bề thế của văn nghệ dân gian là một lợi thế bởi đó là cội nguồn nuôi dưỡng; Thứ ba, một phần được nảy sinh từ yếu tố thứ hai, và có thể coi là dấu ấn của văn học nghệ thuật khu vực này là sự lớn mạnh của lực lượng sáng tác. Đội ngũ gia tăng không ngừng qua từng thời kỳ, các giải thưởng đáng kể trong khu vực và trong nước đã tạo nên sự phát triển ngày một phong phú, đa sắc màu cho văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số nói chung. Thêm vào đó, lợi thế về đội ngũ còn được tiếp tục qua thế hệ trẻ sung sức, giúp tạo nên một lứa những người sáng tác cập nhật cái mới với nhiều thử nghiệm tìm tòi… Và bởi thế, việc “phát huy văn hóa dân tộc Hoa không những không hề ảnh hưởng tới bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam mà còn làm cho nó phong phú, đa dạng hơn. Người Hoa là công dân Việt Nam, là thành viên trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Văn hóa người Hoa theo logic đó, là một bộ phận hợp thành văn hóa Việt Nam. Vì vậy phải tạo điều kiện giữ gìn và phát huy di sản văn hóa của người Hoa theo định hướng vừa gần gũi, kế thừa bản sắc truyền thống tốt đẹp của người Hoa vừa có sự giao lưu, hội nhập vào văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam thắm đượm màu sắc dân tộc phong phú và nội dung xã hội chủ nghĩa.”1
Trong cuộc hội thảo Việt Nam học lần thứ nhất được tổ chức tại Hà Nội vào tháng 7 năm 1998, Ramses Amer (nhà nghiên cứu người Thụy Điển) khái quát những khuynh hướng, vấn đề và các thách thức của người Hoa ở Việt Nam. Theo tổng kết của Ramses Amer, các khuynh hướng nghiên cứu về người Hoa gồm: tác động của công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, tác động quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam, các chính sách của nhà nước Việt Nam đối với người Hoa, vai trò kinh tế của người Hoa và các thay đổi dân số… Không chỉ ở trong đời sống hàng ngày, ngay trong những sáng tác của các nhà văn người Hoa cũng thấy được phần nào chiến lược thích ứng nhạy bén của người Hoa khi hòa nhập vào đời sống cộng cư cùng người Việt, mà thành phố Hồ Chí Minh là một nơi biểu hiện rất rõ. Có một dòng chảy văn học mà những tác giả người Hoa có đóng góp đáng kể như Ngô Nhân Tĩnh (1761-1813), Trịnh Hoài Đức (1765-1825), Trương Hảo Hiệp (1795-1851)… Họ là những tác giả làm đa dạng, phong phú cho nền văn học trung đại Việt Nam; cùng với đó là Chiêu Anh Các - nơi hội tụ văn nhân trí thức Việt, Hoa, tồn tại suốt 35 năm, trở thành salon văn học quốc tế đầu tiên như cách dùng của nhà nghiên cứu Đoàn Lê Giang. Sang đầu thế kỷ XX, với một số tác giả người Hoa, trong đó có Hồ Dzếnh là một ví dụ tiêu biểu để nhìn ra sự đổi khác trong quan niệm về quê hương và sự nhập thân văn hóa trong một không gian mới giữa những thế hệ nhà văn gốc Hoa.
Sáng tác của Hồ Dzếnh mang cái tình hồn hậu, khát vọng ôm chứa cuộc sống. Thơ ông là ký ức của thời hoa niên tươi đẹp với hình ảnh người chị má đỏ hồng đi lễ chùa, phút bâng khuâng khi Hà Nội giao mùa với hồ thu tóc liễu, cái xa thăm thẳm trước biến thiên của cuộc sống khi mộng tàn nước chảy mây trôi… Ông thể hiện tình cảm sâu nặng, gắn bó máu thịt với quê hương, ký ức về quê nội Trung Hoa. Nơi ông hình dung ra những manh áo chàm giang hồ tứ xứ, nơi gọi là Tổ quốc nhưng chưa từng biết bao giờ. Hướng cái nhìn về dĩ vãng xa xăm với những nhớ thương ngày tháng cũ, cảm thức của con người hai dòng máu thuộc về hai thế giới dường như khiến thơ Hồ Dzếnh có chút ngập ngừng. Vẫn yêu cuộc sống này, vẫn thao thiết với quê ngoại nơi đong đầy yêu thương, mà không thôi day dứt nghĩ về chân trời cũ đầy luyến nhớ. Trong truyện ngắn Lòng mẹ ông viết: “Tôi lưu luyến một cái gì xa quá, hư huyền quá… thường thường tôi chỉ sống bằng mộng.” Và bởi thế, thơ ông hiện lên nỗi hoài cổ của một lữ khách, của một kẻ lạc loài vì thiếu nửa quê hương: Giang Tây hồ, đất bao la/ Non ngây nước tóc, màu da rợn trời/ Quan hà, từ nhấp ly bôi/ Lòng đau nhớ nước qua người chị dâu/ Năm năm mơ hội đèn cầu!... (Giang Tây).
Thế hệ tác giả dân tộc Hoa trưởng thành và sáng tác sau 1975 phải kể đến một gương mặt tiêu biểu nhất - Lý Lan. Bà sinh năm 1957 tại Thủ Dầu Một, Bình Dương, là nhà văn, nhà thơ với hàng chục đầu sách đã được xuất bản. Ngoài việc sáng tác bà còn nổi tiếng với vai trò một dịch giả (bà cùng Hương Lan dịch bộ sách Harry Potter sang tiếng Việt). Sau truyện dài đầu tay (Chàng nghệ sĩ, 1978) in trên báo Tuổi trẻ, Lý Lan thử sức ở đa dạng các thể loại như thơ, tùy bút, ký, truyện ngắn, tiểu thuyết… Tác phẩm của Lý Lan hiển hiện một con người “biết lắng nghe trong náo nhiệt đời thường một tiếng thở dài kín đáo, biết nhìn thấy trong khói bụi ô tô sắc biếc xanh của cỏ ven đường”. Trong các tập truyện và ký như Chiêm bao thấy núi, Ngôi nhà trong cỏ, Sài Gòn Chợ Lớn rong chơi, Một góc phố Tàu…, Lý Lan viết về người Hoa, về đất và người Triều Châu nhưng không hiển hiện nỗi niềm day dứt của một kẻ “thiếu quê hương” dù cách tái hiện những món ăn, nghề gia truyền, tập tục, nghi lễ, giọng nói mang âm điệu quê hương… đều biểu lộ rõ một sự tự ý thức về nguồn cội.
|
Với Lý Lan, quan sát quá trình viết với đa dạng thể loại, có thể nhận thấy, dù không phân định rạch ròi nhưng nhà văn có ý thức về một sự dung hòa của hai nền văn hóa, cũng là hai lựa chọn song trùng. Phố Tàu - nơi toàn người Hoa sinh sống, sau bao cuộc dâu bể, người Việt sống xen kẽ với người Hoa thì “văn hóa sông Hồng sông Hương đã chan hòa bên dòng kinh Tàu Hủ”. Với bà, những huyền thoại về Chợ Lớn đến nay chưa hẳn đã tan biến, bởi ấn tượng về những cái tết Trung thu, Nguyên tiêu, Đoan ngọ, Trùng cửu… không bao giờ xóa nhòa. Ngày trước, có những người ở Chợ Lớn trọn đời không nói tiếng Việt, bởi họ sinh ra trong nhà bảo sanh người Hoa, sống ở phố người Hoa, đi học trường Hoa, làm việc trong xưởng người Hoa, đi chùa của người Hoa, bạn bè vợ con là người Hoa, chết thì chôn trong nhị tỳ người Hoa… Nhưng cũng có những người khi sang Việt Nam không biết tiếng Việt, họ đã tự học để làm ăn và nói năng lưu loát, thậm chí thông thạo phong tục tập quán người Việt; hay như có một hội các nhà văn nhà thơ, họa sĩ, nhiếp ảnh người Hoa ở Chợ Lớn họp thường niên vào chủ nhật đầu tiên sau tết cổ truyền.
Rải rác thấy trong các tập truyện, các bút ký của Lý Lan, những người Hoa dù sinh sống trên mảnh đất Sài Gòn nhưng vẫn lưu giữ những thực hành nghi lễ trong cộng đồng, trong gia đình. Họ tổ chức cúng lễ vào các dịp lễ tết truyền thống, dấu vết các tín ngưỡng thờ Thiên Hậu Thánh Mẫu, thờ Quan Công, thờ cúng tổ tiên, Thần Tài… khá đậm. Đặc biệt, những nhân vật người Hoa ở Chợ Lớn ai cũng có vóc dáng gương mặt riêng, nhưng hơn hết họ là những con người đồng hương đồng tộc, dù đi đâu cũng luôn ý thức rất rõ về nguồn gốc, về sự cố kết cộng đồng. Nỗi niềm xa xứ dù không day dứt nhưng đôi lúc hằn lên những thảng thốt, khi chứng kiến những thân phận, khi gặp lại tập tục người Hoa.
Trong Chân dung người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh, Lý Lan viết: “Xóm Chiếu, người Quảng Đông phát âm là Sấm Chíu, nghĩa là nỗi buồn trong tim. Đó là bến cảng mà con tàu chở di dân Trung Hoa cập vào sau bao ngày lênh đênh trên biển khơi. Sấm chíu, nỗi buồn trong tim, tên gọi miền đất hứa ở phương Nam! Nhưng dù sao thì cũng đã đến, cố hương đã lùi về cõi mờ mịt, dẫu ngoái đầu lại cũng không thấy ngày về.” Ở đó là một trạng thái xa xứ được thấm thía, được ý thức sâu sắc nhưng ngầm ẩn cả một sự chấp nhận, bởi “dù sao cũng đã đến, cố hương đã lùi về cõi mờ mịt”. Và ở khía cạnh khác, người đọc thấy một Sài Gòn - Chợ Lớn như ký hiệu rõ rệt của một tinh thần hòa nhập. Những trải nghiệm có được trong những năm tháng sống tại Sài Gòn, nhưng hơn hết là những gắn bó gan ruột với mảnh đất và văn hóa nơi đây đã đem đến một dấu ấn đậm trong văn xuôi Lý Lan.
Có thể thấy, với những nhân vật thuộc về thế hệ trước, cảm thức về nơi chốn có ý nghĩa sinh tử bởi họ mang ý niệm về một ngôi làng, một vùng đất cụ thể, nhưng đến thế hệ của những đứa con đã di cư, hành trình nối dài/ rộng bản sắc tộc người trên những miền đất mới cho thấy xu hướng phi hạn định về không gian. Và cảm thức ấy được tiếp nối trong nhiều sáng tác của các tác giả trẻ sau này, mà Tăng Quảng Kiện là một trường hợp thú vị. Anh cho biết khi xuất bản Nơi tuổi xuân bắt đầu: “Việc xuất bản tập thơ để góp phần kế thừa và phát triển văn học Việt - Hoa, cũng như cho văn đàn Việt Hoa và độc giả. Tôi mong rằng sẽ gợi lên hứng thú đọc và viết văn của các nhà văn trẻ người Hoa.”
Sau 1975 và đặc biệt từ 1986 trở đi, giao lưu văn hóa toàn cầu đã mở ra những cơ hội phát triển mới cho văn học nghệ thuật Việt Nam đương đại. Trong các yếu tố, sự sôi động của đời sống xã hội và đời sống văn học nghệ thuật đương đại không thể tách rời sự bùng nổ của kinh tế thị trường. Và do có tính chất gặp gỡ với nhiều bộ môn nghệ thuật, văn học luôn có nhiều cơ hội cho việc chuyển thể sang các loại hình nghệ thuật khác. Mối quan hệ giữa văn học và nghệ thuật là mối quan hệ hai chiều, tác động qua lại lẫn nhau. Sự giao thoa giữa văn xuôi với điện ảnh, thơ với nhạc, nhiếp ảnh với hội họa... diễn ra mạnh mẽ và mang đến một diện mạo mới cho văn học nghệ thuật với nhiều tác phẩm là tổng hòa của nhiều loại hình nghệ thuật, trong đó có cả những loại hình truyền thống.
|
Người Hoa có truyền thống âm nhạc, sân khấu sâu rộng trong các tầng lớp dân cư, điển hình là sinh hoạt nhạc xã của những người dân lao động. Trong đó, nghệ thuật múa lân của người Hoa đặc biệt phát triển ở Việt Nam nói chung và thành phố Hồ Chí Minh. Nhà nghiên cứu Vương Xuân Tình cho biết: “Ở thành phố Hồ Chí Minh, vào giữa thập niên 2000, người ta thấy có sự hiện diện của hơn 30 đội múa lân sư rồng. Múa lân sư rồng là sự kết hợp giữa vũ đạo, võ thuật, âm nhạc và kỹ xảo. Các đội múa của người Hoa quy tụ những người nghiệp dư yêu thích hoạt động này, cùng nhau tập luyện để đi biểu diễn vào các dịp lễ hội hằng năm. Một nguồn lực giúp họ tồn tại khác chủ yếu đến từ việc đi biểu diễn theo yêu cầu của các cơ sở sản xuất, xưởng, nhà hàng, quán ăn của người Hoa. Các đội đều có khả năng mua được lân sư và rồng, tuy nhiên nhóm Quảng Đông thạo múa lân, nhóm Triều Châu giỏi múa sư và nhóm Phúc Kiến giỏi múa rồng.”
Về mỹ thuật, thế hệ các tác giả người Hoa hiện đang sáng tác và hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh cho thấy một diện mạo bề thế, độc đáo và đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của văn học nghệ thuật các dân tộc Việt Nam sau ngày thống nhất đất nước. Những tác giả được xưng tụng là “bậc thầy” như Trương Lộ, Trương Hán Minh… không chỉ vì có nhiều tác phẩm xuất sắc, đạt giải cao trong các cuộc triển lãm lớn… mà còn bởi sự định hình và ảnh hưởng cho quá trình phát triển chung, ảnh hưởng tới thế hệ kế cận. Đặc biệt phải kể đến những hoạt động triển lãm tranh của Câu lạc bộ Mỹ thuật người Hoa - một hoạt động thường niên, nơi hội ngộ của các họa sĩ thủy mặc nhiều thế hệ, nòng cốt là các họa sĩ người Hoa tại Chợ Lớn (Câu lạc bộ Mỹ thuật quận 5 là niềm tự hào của Trung tâm Văn hóa quận 5 với lực lượng hội viên nòng cốt là những nghệ nhân nổi tiếng như: Trương Hán Minh, Lý Khắc Nhu, Huỳnh Tuần Bá, Lý Tùng Niên, Trương Lộ, Lư Tùng Đạo…) Những tổ chức văn học nghệ thuật như thế tạo nên sự gắn kết rất hiệu quả và phát huy được tiếng nói mạnh mẽ trong cộng đồng, như Phụ trương Văn nghệ Quế quán quy tụ được nhiều sáng tác, tác phẩm văn học nghệ thuật của các văn nhân, thi nhân, nghệ sĩ người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh và Nam Bộ, là một thành tựu văn học đáng chú ý của người Hoa trong thời kỳ đầu trong những năm 80, 90 của thế kỷ trước. Hội Văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số thành phố Hồ Chí Minh có nhiều hoạt động đóng góp cho việc đáp ứng và phát triển nhu cầu văn hóa của bà con người Hoa ở thành phố và khu vực Nam Bộ. Liên quan đến các hoạt động văn hóa của người Hoa, hội có một số chi hội như: Chi hội Hội họa - Mỹ thuật người Hoa, Chi hội Văn nghệ người Hoa, Chi hội Thư pháp, Chi hội Văn học Hoa văn, Ban biên tập Tạp chí Văn học nghệ thuật người Hoa, Ban Bảo trợ văn học nghệ thuật người Hoa... trong đó Trung tâm Văn hoá quận 5 là một địa chỉ sinh hoạt văn hoá quan trọng.
Một ví dụ rất sinh động cho sự giao thoa giữa các loại hình nghệ thuật là việc nghiên cứu về Truyện Kiều và Nguyễn Du. Bên cạnh nhiều tham luận có giá trị của các nhà nghiên cứu hàng đầu được trình bày tại hội thảo khoa học cấp quốc gia kỷ niệm 250 năm năm sinh đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, các hoạt động như trưng bày các tác phẩm thư pháp, tranh và sách về Nguyễn Du, Truyện Kiều của các thư pháp gia Trương Lộ, Lâm Hán Thành, Huỳnh Hiến Bình, Trần Tiên Minh... không chỉ tạo nên sự thu hút cho người nghiên cứu, người xem mà còn cho thấy sự cần thiết của việc tương tác giữa văn học và các loại hình nghệ thuật khác.
Có thể kể đến những tên tuổi đã trở thành niềm tự hào cho nền văn hóa nghệ thuật dân tộc Hoa tại Việt Nam như nhà nghiên cứu Nghị Đoàn say mê, tâm huyết với nhiều đóng góp cho sự phát triển của văn hóa, văn học dân tộc Hoa ở Việt Nam; NSƯT Lâm Bửu Sang để đời với những vai kép võ, tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng khán giả và nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới chuyên môn; võ sư Lưu Kiếm Xương với những “tuyệt kỹ” đã đưa danh tiếng của Nhơn Nghĩa Đường lên đỉnh cao trong các đấu trường quốc tế về nghệ thuật múa lân - sư - rồng… Điểm sơ lược những gương mặt tiêu biểu và còn rất nhiều những văn nghệ sĩ thành danh ở nhiều lĩnh vực như Giang Quốc Trị, Lưu Kim Hoa, Trần Huy Chí, Lương Hùng Đức, Lâm Tẻn Cuội, Thái Thanh Niên, Thương Chí Dương…
Dân tộc Hoa là một tộc người có nhiều nét đặc thù khi so sánh với các tộc người khác ở Việt Nam. Đứng trước dấu mốc 50 năm nhìn lại công cuộc phát triển văn học nghệ thuật sau ngày thống nhất đất nước, chủ trương “thống nhất trong đa dạng” là một tiền đề quan trọng cho sự phát huy vị thế, bản sắc văn học các dân tộc thiểu số trong ngôi nhà chung. Bởi thế, cần thêm những nghiên cứu về thành tựu cũng như vấn đề nổi bật trong văn học nghệ thuật dân tộc Hoa tại Việt Nam để mang đến những tiếng nói phong phú, đa chiều và sâu sắc hơn nữa.
............................
1. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Về văn hóa dân gian Đông Nam Bộ, Nhà xuất bản Đồng Nai, 2009, tr.230.