Diễn đàn lý luận

Vai trò người kể chuyện trong tiểu thuyết "Báu vật của đời"

Nguyễn Hữu Sơn
Lý luận phê bình
14:00 | 14/03/2025
Baovannghe.vn - Tiểu thuyết Báu vật của đời (Trần Đình Hiến dịch. Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, 2001; 860 trang) của nhà văn Mạc Ngôn (tác giả đoạt giải Noben Văn học, 2012) bao quát nội dung hiện thực vô cùng phong phú của lịch sử - xã hội Trung Quốc qua suốt hơn nửa thế kỉ.
aa

Thông qua lời kể - tự thuật của nhân vật chính Thượng Quan Kim Đồng về số phận bi thương của những người thân trong gia đình - đặc biệt về kiếp nạn người mẹ và tám người chị gái - cùng biết bao cuộc đời người dân ở vùng quê Cao Mật, tác phẩm đã tái hiện được bức tranh ngột ngạt, u ám, kinh dị về một giai đoạn lịch sử còn chưa xa; hay nói khác đi, đó là cảm giác thức tỉnh hãi hùng sau một giấc mộng mị ma quái nặng nề. Bên cạnh nhiều phương diện nghệ thuật đặc sắc như thủ pháp đồng hiện, đảo ngược trật tự thời gian tuyến tính, thời gian biên niên sử, đan xen các số phận nhân vật và sự kiện khác biệt nhau... thì chính nhân vật "tôi" - người kể chuyện đã đóng vai trò quan trọng, có ý nghĩa quyết định làm nên đặc điểm hình thức tự sự trong tiểu thuyết Báu vật của đời.

Xem xét cả bảy chương tiểu thuyết Báu vật của đời thấy chỉ có hai chương đầu được viết theo phong cách truyền thống, trong đó vai trò chủ thể tác giả ẩn khuất sau nhân vật và sự kiện, các tuyến nhân vật và sự kiện được trình bày và tự biểu hiện như nó vốn có thể xảy ra. Tuy nhiên, ở một số đoạn vẫn thể hiện rõ dụng công sắp xếp của tác giả nhằm gợi ý, báo hiệu, khơi mở cho các nội dung sẽ triển khai sau này. Chẳng hạn, đồng thời với giọng điệu trần thuật sự kiện là những hồi tưởng về một cuộc tình ngoài khuôn phép: “Cùng với tiếng chuông, cùng với tiếng cảnh báo quân Nhật sắp đến là một bãi nước ối chảy ra từ giữa hai chân chị Lỗ. Chị ngửi thấy mùi thịt dê, còn ngửi thấy mùi hoa hòe thơm đậm đà mà thanh nhã. Cảnh yêu nhau trong rừng hòe năm ngoái cùng với mục sư Malôa lại hiện rõ trước mặt chị” (tr.13); có khi hứa hẹn mở ra chuỗi sự kiện hấp dẫn sẽ diễn ra trong tương lai: “Người đàn ông răng trắng mặt đen, nét mặt vui vẻ, tay phải cầm khẩu súng lục có ánh thép xanh, tay trái cầm một vật phát ra tiếng kêu tích tắc. Sau này, cô mới biết đó là chiếc đồng hồ bỏ túi. Và chính con người mặt đen đó, cuối cùng đã chui vào chăn của cô” (tr.37)... Có thể nói giọng điệu trần thuật khách quan, lạnh lùng đã dồn nén được các sự kiện vào một khoảng thời gian ngắn, một không gian hẹp, tạo không khí căng thẳng và tình thế đầy kịch tính. Xoay quanh câu chuyện sinh nở của chị Lỗ Toàn Nhi và câu chuyện đời thường trong gia đình Thượng Quan, tác giả đã phản ánh được hủ tục ngàn đời đang đè nặng lên số phận người phụ nữ, tạo thành áp lực đẩy con người đến đường cùng ranh giới giữa cái sống và cái chết, giữa quyền làm người và hành vi tàn nhẫn đến mất cả nhân tính. Đồng thời, một vài lời bình luận ngoại đề đã góp phần gia tăng tính hấp dẫn, khơi gợi trí tò mò của người đọc từ thực tế các tình huống, sự kiện đã diễn ra vào đúng buổi sáng ngày 5 tháng 5 âm lịch, tức năm 1939 - cái ngày sinh ra nhân vật Kỳ Đồng tại thị trấn Đại Lan ở vùng quê Cao Mật...

Tiếp theo từ Chương Ba đến Chương Sáu là sự tái hiện lịch sử Trung Quốc phù hợp với từng giai đoạn mà người đọc có thể đặt thêm các phụ đề tương ứng, chẳng hạn về cuộc kháng chiến chống Nhật, về nội chiến Quốc - Cộng, về một thời hợp tác hóa và cách mạng văn hóa, và gần nhất là làn gió đổi mới diễn ra như một xu thế tất yếu khách quan. Bắt đầu từ Chương Ba, nhân vật Tôi chính thức hiện diện. Nhưng điều đặc biệt ở đây là nhân vật Tôi - Kỳ Đồng được thể hiện với đầy đủ ý thức, cá tính ngay từ khi mới cất tiếng khóc chào đời. Đương nhiên trên thực tế không thể có chuyện đứa hài nhi có thể tự thuật: “Sau khi tiêm thuốc cầm máu, mẹ tôi tỉnh lại, cái nhìn đầu tiên là nhìn tôi - chính xác hơn là nhìn cái chim bé như con nhộng ở giữa hai chân tôi, cặp mắt u tối của mẹ chợt bừng sáng. Mẹ bế tôi lên, áp mặt vào mặt tôi. Mặt tôi đẫm nước mắt của mẹ. Tôi khóc oe oe, miệng tìm vú. Mẹ nhét vú vào miệng tôi. Tôi mút vú thành thạo như đã được huấn luyện trước” (tr.68); hoặc lời trần thuật đầy tính giả tưởng: “Cái hôm tôi và chị Tám vừa tròn trăm ngày đúng vào tết Trung thu. Buổi sáng, mẹ bế tôi và chị Tám đến chỗ mục sư Malôa" (tr.84)... Đồng thời bên cạnh sự phi lí về những lời tự thuật của đứa trẻ hài nhi là những trang miêu tả, kể chuyện, trần thuật các biến cố và sự kiện vừa có phần liên quan với nhân vật Tôi - Kỳ Đồng vừa như một sự mô tả hoàn toàn khách quan, nằm ngoài mối liên hệ và tầm kiểm soát của nhân vật chính. Có lẽ nhờ khai thác triệt để cả thủ pháp tự thuật của nhân vật chính bằng sự đồng nhất cái Tôi - Tác giả với cái Tôi - Nhân vật và lời tự sự - kể chuyện khách quan không có sự góp mặt trực diện của chủ thể tác giả đã giúp cho thiên tiểu thuyết mở rộng dung lượng hiện thực cũng như khả năng khái quát các vấn đề lịch sử - xã hội rộng lớn.

Vai trò người kể chuyện trong tiểu thuyết
Ảnh internet

Cho đến Chương Bảy, thiên tiểu thuyết trở về với giọng điệu trần thuật khách quan, kể lại lai lịch cuộc đời mẹ Lỗ Toàn Nhi và việc đi “xin giống” vụng trộm với tâm thức căm hờn nhà chồng: “Này mẹ chồng, này chồng, các người cứ đánh tôi đi, cứ mong đi, tôi sẽ đẻ con trai nhưng nó không phải giống nhà Thượng Quan, các người thiệt to rồi” (tr.785). Đó là chương kể lại thứ tự tám lần sinh nở của Lỗ Toàn Nhi gắn liền với tám anh chồng hờ khác nhau, có lần vụng trộm chớp nhoáng, có lần chủ động gắn bó sâu nặng hơn và đồng thời theo đó là số phận thăng trầm đong đầy ai bi sầu oán của chín người con. Cuối cùng là chương Viết thêm có ý nghĩa như là phần vĩ thanh và đoạn kết nhấn mạnh cái gọi là “báu vật của đời”, cái được coi là lực hướng tâm qui tụ mọi năng lực và mối quan tâm của người đời - từ thuở thiếu thời đến khi già cả, từ kẻ sang giàu đến người nghèo khó, từ viên tướng đạo mạo đến anh lính quèn - rút cuộc đều thật lòng thương mến “phong nhũ phì đồn" - vú to mông mẩy: “Đêm hôm ấy, một đêm trời đầy sao, Kim Đồng nằm ngửa bên mộ mẹ, miệng ngậm những cánh hoa, anh nhớ lại bao chuyện cũ, đều là những mẩu lấp lánh. Sau đó, dòng hồi ức gián đoạn, lướt qua trước mặt anh là những bầu vú. Trong đời anh đã trông thấy đủ các loại vú, dài có, tròn có, nhọn có, dẹt có, đen có, trắng có, thô có, mịn có. Những bảo bối ấy, những tinh linh ấy trình diễn trước mắt anh kĩ xảo phi hành đặc biệt và những điệu múa kì ảo. Chúng giống chim, giống hoa, giống những tia chớp hình cầu, tuyệt đẹp! Báu vật trên trời là mặt trời mặt trăng và những vì sao. Báu vật của đời là vú to mông mẩy! Anh từ bỏ ý nghĩ tóm được chúng, dứt khoát không tóm nổi thì phí sức làm gì? Anh chỉ cần sung sướng ngắm nhìn chúng. Sau đó, trên đầu anh, những bầu vú bay dọc bay ngang ấy tụ lại thành một bầu vú khổng lồ, lớn dần ra, cao dần lên thành quả núi cao, cao nhất giữa trời và đất, núm vú phủ tuyết trắng, mặt trời mặt trăng xoay quanh như hai con bọ dừa màu nhũ bạc” (tr.859-860)... Rõ ràng trong thiên tiểu thuyết đã thấm đẫm triết lí phồn thực, màu sắc nhục cảm và tạo nên tính trội trong giọng điệu tự thuật - trần thuật, đồng thời góp phần quy định các biến tấu phong cách người kể chuyện cũng như hình thức kết cấu tác phẩm. Điều quan trọng hơn, tác giả không cơ giới thuật truyện hài nhi Kỳ Đồng hay mượn Kỳ Đồng làm nhân vật trung gian để phản ánh hiện thực mà chính là đã chuyển hóa Kỳ Đồng anh nhi thành số phận nhân vật, một cá thể có đời sống nội tâm, được nội tâm hóa, có thế giới tâm hồn riêng, biết cảm nhận và chịu trận mọi đắng cay tủi nhục, mọi phong ba bão táp do cuộc đấu tranh xã hội xô dội vào. Có thể nói chính khả năng nhập thân nội tâm hóa kiểu này đã giúp cho biểu tượng nhân vật Tôi - Tác giả - hài nhi Kỳ Đồng trở nên “có lí trong sự phi lí”, “giả tưởng một cách thuyết phục”. Và như thế, câu chuyện lí thuyết phản ánh thực tại hay là “tái tạo” một thế giới hiện thực tiểu thuyết có lẽ còn là câu chuyện cần được bàn luận dài dài...

Tiểu thuyết Báu vật của đời quả đã bao quát được dung lượng hiện thực xã hội rộng lớn, phức tạp và những đổi thay đến chóng mặt ngay trong một gia đình qua lời lão Từ mù: “Cô nương Phán Đệ, họ Thượng Quan nhà cô quả là giỏi! Thời Nhật thì có chàng rể Sa Nguyệt Lượng đắc thế, thời Quốc dân đảng có rể thứ hai Tư Mã Khố đắc thế, bây giờ có cô và Lỗ Lập Nhân đắc thế. Gia đình cô không bao giờ bị mất ngọn cờ, không bao giờ bị lật thuyền. Rồi đây người Mỹ chiếm Trung Quốc, gia đình cô còn có chàng rể tây” (tr.343)... Thực ra, theo tôi nghĩ, những vấn đề lịch sử - xã hội đặt ra ở đây không mới. Các đề tài nội chiến, chiến tranh cách mạng, cải cách ruộng đất, phong trào hợp tác hóa và sai lầm nặng nề của cách mạng văn hóa đều đã được phơi bày, thậm chí đã được thâm canh kĩ lưỡng qua các dòng “văn học vết thương”, “văn học phản tỉnh”... Nhiều mảng hiện thực như tội ác quân Nhật, cuộc sống ở đội lao cải, mẫu đề bán con hay nhân vật lý tưởng chàng câm - người anh hùng Tôn Bất Ngôn xả thân cứu đê vỡ trong khi cả trung đoàn 17 bất lực... đã trở thành những môtip qui chuẩn quen thuộc, nếu không muốn nói là nhàm chán! Rút cuộc, điều cốt lõi tạo nên tính thống nhất và hấp dẫn cho cả thiên tiểu thuyết này chính là vai trò người kể chuyện đã đan kết, xâu chuỗi các tuyến nhân vật, sự kiện và làm nổi bật được những số phận con người trong một giai đoạn lịch sử không phải bị tráng mà chính thực là bi thương, ai oán, quái gở, bất nhân, tàn độc, đầy sinh ly tử biệt. Đó là sự cảm nhận cay đắng, bất lực, vô phương hướng của nhân vật chính Thượng Quan Kỳ Đồng trước cõi đời: “Những năm tháng đã qua y hệt con đường mòn mất hút trong thảo nguyên mênh mông, chỉ nhìn lại được chừng ba bốn mét, xa hơn nữa là khuất trong sương mù. Đã sống già nửa đời người, một cuộc sống tệ hại, tởm lợm, ngay bản thân cũng tự cảm thấy thương hại, buồn nôn! Gần nửa cuộc đời tiếp theo, tính từ khi được phóng thích, coi như đã bắt đầu, chẳng hiểu rồi sẽ như thế nào?" (tr.606)... Có lẽ đây cũng chính là nội dung cội rễ vượt lên cảm quan phồn thực, tạo nên ý nghĩa thanh lọc và sự đồng cảm sâu sắc nơi bạn đọc...

Văn nghệ, số 45/2012
Biểu tượng - Thơ Vân Long

Biểu tượng - Thơ Vân Long

Baovannghe.vn- Biển và cây và trời/ Nhoà một hỗn mang
Lan tỏa giá trị gia đình qua cuộc thi viết: "Cha và con gái" lần thứ 3

Lan tỏa giá trị gia đình qua cuộc thi viết: "Cha và con gái" lần thứ 3

Baovannghe.vn - Ngày 14/3/2025, tại Đại học Hà Nội, Tạp chí Gia đình Việt Nam phối hợp cùng trường Đại học Hà Nội đã tổ chức lễ phát động cuộc thi viết với chủ đề “Cha và con gái” lần thứ 3.
Bế mạc Phiên họp thứ 43 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Bế mạc Phiên họp thứ 43 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

Baovannghe.vn - Chiều 14/3/2025, tại Nhà Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn phát biểu bế mạc Phiên họp thứ 43 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sau 2,5 ngày nhóm họp
Anora, từ Cannes đến Oscar, và một nền “điện ảnh bên lề”

Anora, từ Cannes đến Oscar, và một nền “điện ảnh bên lề”

Baovannghe.vn - Chiến thắng của Anora còn nói về một nền điện ảnh bên lề khác là làm phim độc lập kinh phí thấp. So với những tác phẩm “bom tấn” với kinh phí hàng trăm triệu đô la, với những ngôi sao cỡ bự,
Biển giả. Tản văn của Nguyễn Hiệp

Biển giả. Tản văn của Nguyễn Hiệp

Baovannghe.vn - Rạo lòng nghe rễ lên tận cuống/ Lá chợt xanh um mát cả hồn