Ba bốn năm trước có tác giả tìm đến tôi, đặt trước tôi một bản thảo hơn 1 triệu chữ, một dung lượng khiến tôi rất kinh ngạc. Tác giả ấy đã bỏ ra nhiều năm ròng rã để xây dựng một câu chuyện lớp lang với nhiều ý tưởng bay bổng. Xuất bản nó là chuyện khó vì phải đầu tư rất lớn, nhưng điều tôi muốn nhấn mạnh ở đây chính là tham vọng sáng tạo của họ.
Trong tư cách là biên tập viên lâu năm của một đơn vị xuất bản khá lớn, mỗi năm nhận được năm bảy trăm bản thảo gửi đến, tôi nhận ra rằng: bất chấp sự xâm lấn của văn hóa nghe nhìn, bất chấp văn chương giờ đây lui về là một món đặc sản hơn là thức ăn tinh thần phổ biến, bất chấp cơ hội để được xuất bản là rất cạnh tranh, thì nhu cầu sáng tạo, niềm vui thích kể chuyện vẫn luôn ở đây. Người viết mà tôi được tiếp cận đa số là trẻ. Khát khao trở thành một nhà văn là thứ nhiều người ấp ôm.
|
Nếu lướt qua thế giới mạng, hóa ra những tác giả viết cả triệu chữ cũng không quá hiếm. Nhiều chữ không khẳng định là hay, nhưng cho thấy tham vọng, và sức lao động điên cuồng.
Từ những bản thảo được tiếp cận, tôi nhận thấy các xu hướng sáng tác đa dạng, phong phú, từ thơ ca, tới tự sự phi hư cấu (hồi ký, tự truyện), và các thể loại tiểu thuyết..., từ các dòng sáng tác đã ổn định, đến những tìm tòi và xu hướng mới. Chẳng hạn, rất nhiều bản thảo thơ được gửi đến cho thấy chúng ta vẫn là “cường quốc về thơ”. Tiểu thuyết lịch sử, tiểu thuyết thế sự vẫn được nhiều người lựa chọn. Nhưng có thể thấy những năm qua, dòng sách hồi ký, tự truyện, chia sẻ các câu chuyên cá nhân bung nở, khi người ta nhận thức rằng ai cũng có thể có không gian để kể, và ai cũng có câu chuyện riêng để kể. Thể loại truyện giả tưởng cũng có nhiều người theo đuổi, một quãng thời gian tôi nhận được rất nhiều. Các tác giả vẽ ra những hành tinh khác, thế giới khác, vũ trụ khác, với những thế lực tranh đoạt vị trí, với những người được chọn để giải cứu thế giới... Tuy vậy dòng văn học giả tưởng ở trong nước đến nay vẫn chưa có một vị trí rõ ràng.
Truyện kinh dị có các yếu tố lịch sử văn hóa bản địa, khởi đầu từ Phan Cuồng, đã dần trở thành một trào lưu mạnh ở Việt Nam. Đây là món lạ khác biệt trong những năm qua, thu hút độc giả, nên có nhiều tác giả trẻ hào hứng thử sức và đạt được thành tựu. Họ đã khai thác đa dạng các bối cảnh từ thành thị, nông thôn, lịch sử, đời sống hiện đại để cài cắm câu chuyện, khiến không khí mảng truyện này rất sôi nổi, từ đó lan sang phim ảnh và thậm chí cả MV âm nhạc.
Văn học thiếu nhi cũng phát triển từ đòi hỏi của xã hội. Những năm qua việc phát triển thói quen đọc sách cho trẻ em được xã hội và gia đình chú ý. Trẻ em là tương lai, và trong điều kiện kinh tế đã tương đối dư giả, người dân không ngần ngại đầu tư cho tương lai. Các công ty xuất bản đều lao vào mảnh đất màu mỡ này. Nhận ra xu hướng, số lượng các tác giả viết cho thiếu nhi tăng lên rất nhiều. Trước đây chúng ta thường chỉ biết tới giải Văn học thiếu nhi do Hội Nhà văn Việt Nam xét, thì hiện nay đã có nhiều giải như Dế Mèn, giải thưởng của Nhà xuất bản Kim Đồng, giải Văn học thiếu nhi TP Hồ Chí Minh, giải thưởng Đóa hoa đồng thoại…
Nhưng như thế đã đủ chưa?
Như ở trên đã trình bày, có rất nhiều người viết trẻ đang ấp ôm trở thành văn. Có rất nhiều người bay ở đây và họ cần có chân trời. Nhưng phải nói là, môi trường và điều kiện để “bay” của chúng ta còn khá khiêm tốn.
Nhìn vào thị trường xuất bản, nơi công bố tác phẩm văn chương và mang lại nguồn thu cho người sáng tạo, ta sẽ thấy sự mất cân đối. Tổng doanh thu toàn ngành xuất bản đạt hơn 4.500 tỷ đồng, trong đó hơn một nửa đã là sách giáo khoa, giáo trình… Số còn lại là sách phi hư cấu, truyện tranh… Văn chương chỉ là một địa hạt rất nhỏ trong đó. Sách Nobel đa phần là sách ế hoặc tiêu thụ chậm. Sách của các tác giả đương đại Việt Nam, nhất là tác giả trẻ, hầu như chỉ in được 1.000-2.000 bản, ít khi được tái bản. Tôi rất ám ảnh với con số này và thực lòng mong muốn làm sao có thể nâng giới hạn con số này lên.
Các giải thưởng văn chương, vốn là nơi “kích cầu” cho người viết, thì nay ít nhiều tiêu biến. Không gian công bố tác phẩm trên báo và tạp chí giấy ít đi, trên các trang mạng chính thống, đất dành cho văn chương cũng bị sa sút.
Văn hóa nghe nhìn lấn át, năng lực tập trung để đọc sách của con người hiện đại ngày càng kém đi. Mỗi năm ta in nhiều đầu sách hơn, nhưng tỷ lệ số người đọc không tăng tương ứng.
Trong bối cảnh đó, làm sao để các sáng tác được đọc, làm sao để tác phẩm tới tay độc giả, luôn là một câu hỏi đau đầu.
Người viết chắc chắn phải tự thân vận động trước. Dĩ nhiên sáng tạo không ngừng nghỉ, duy trì nội lực tự thân là quan trọng nhất. Đối với những bản thảo tôi có trải nghiệm trong nhiều năm qua, nhiều người viết bị một vấn đề là thiếu đầu tư về tư liệu, tư liệu từ đời sống, tư liệu từ sách vở... thành ra bản thảo thiếu sức sống, không đi được đường dài.
Chỉ ngồi viết và không làm gì khác, đấy cũng là một lựa chọn. Nhưng làm mọi cách để tác phẩm của mình được hiện diện (mà không vi phạm pháp luật hay đạo đức) thì cũng không có gì sai mà rất đáng cổ vũ. Ví dụ, tìm cách xuất bản, crowd-funding, tìm cách kể câu chuyện của mình ở các nền tảng mạng xã hội, tìm các kết nối với đồng nghiệp thế giới, các dự án viết nước ngoài, tìm cách dịch tác phẩm của mình ra tiếng Anh tiếng Pháp… tất cả đều sẽ tăng cơ hội hiện diện cho tác phẩm.
Nhưng trong điều kiện khó của xuất bản và văn chương bây giờ, chỉ trông vào vận động tự thân của tác giả là không đủ. Nếu muốn văn chương trong nước có một không khí mới, nhất định phải có sự đồng hành của các cơ quan chức năng, quản lý. Thiết thực trước nhất, người viết cần được hỗ trợ xuất bản. Chúng ta có thể xây dựng quỹ và mỗi năm đầu tư xuất bản cho một số tác giả, phối hợp với các đơn vị xuất bản để thẩm định và thực hiện. Hoạt động quảng bá tác phẩm cũng phải có cơ chế, nhất là khi tiếp cận các trường học.
“Mưa rơi không cần phiên dịch” nhưng sách của chúng ta thì có cần, rất cần. Chúng ta nhập quá nhiều văn chương nước ngoài mà không bán văn chương Việt ra thế giới được mấy. Đọc và so sánh một số tác phẩm Âu, Mỹ, Hàn… đã in ở Việt Nam, tôi thấy văn chương của chúng ta có nhiều điểm sáng, có những lấp lánh. Nhưng hiện nay việc dịch văn chương Việt ra thế giới chỉ hạn chế trong một số tác phẩm của một số nhà văn tên tuổi, và rất nhiều khi, việc dịch, quảng bá đó là các dự án nhỏ lẻ, thông qua uy tín cá nhân hay những mối quan hệ riêng, được chăng hay chớ chứ không thành hệ thống. Sách in ra các ngôn ngữ lớn sẽ tạo được độ nhận diện cho văn chương trong nước, làm tăng uy tín của tác giả và giá trị của văn chương, giúp chúng ta có cơ hội chạm tới những giải thưởng quốc tế, và điều này sẽ tác động tích cực trở lại với nhu cầu đọc của độc giả trong nước.
Một điều nữa mà tôi cho rằng chúng ta cần nghĩ đến, đó là thực hiện chuyển thể, hoặc sáng tạo lại các nội dung tác phẩm cho các nền tảng nghe nhìn. Không thể phủ nhận rằng thói quen đọc của xã hội hiện đại đang ngả nhiều sang nghe nhìn, nên việc sáng tạo lại các nội dung từ văn chương chuyển thành video, clip cũng là một cách tiếp cận độc giả rất tốt. Hiện nay có những tác giả đang làm điều này một cách tự phát, nhưng nếu được tổ chức thành một hệ thống, nhất định sẽ mang đến không khí mới mẻ cho văn chương.
Để văn chương Việt có một gương mặt tươi mới, không phải là không thể, tôi tha thiết tin điều này. Nhưng rõ ràng, đấy phải là một chiến lược cần sự phối hợp cùng lúc của bốn bên: nhà văn có tác phẩm tốt; nhà nước có quỹ đầu tư, Hội Nhà văn đứng ra quản lý; và cuối cùng, là một nhà xuất bản/công ty xuất bản chịu trách nhiệm tổ chức xuất bản và quảng bá tác phẩm.
Câu hỏi của tôi bây giờ là: liệu khi nào chiến lược này sẽ bước những bước đầu tiên?