MÙA THU TRÊN ĐỒNG
|
VŨ QUẦN PHƯƠNG
Sông mùa thu cạn
Nước mùa thu trong
Chân ta vừa bước đến
Hồn thành thu trên đồng
Hồn thành thu như cây
Thì thầm tâm sự gió
Hồn thành thu như mây
Âm thầm che xóm nhỏ
Hồn thành thu như cỏ
Lặng im nâng dấu giầy
Con đường đi về đâu
Mà gọi lòng ta thế
Trời cao hay gốc rễ
Dâng hồn ta nhẹ thênh
Quê nhà hay cửa bể
Ru hồn ta bồng bềnh
Mùa thu rộng mênh mông
Người bên người gần gụi
Em lặng nhìn chẳng nói
Anh nghe hồn ngân nga.
LỜI BÌNH
Mùa thu là nguồn cảm hứng muôn đời cho bao thi sĩ kim cổ. Vũ Quần Phương có bài “Mùa thu trên đồng”. Bài thơ gồm 20 câu thơ chia làm 4 khổ. 18 câu Vũ Quần Phương viết bằng thể thơ 5 chữ. Riêng 2 câu đầu, mỗi dòng thơ chỉ có 4 chữ ghi lại những quan sát về sông nước mùa thu: “Sông mùa thu cạn/ Nước mùa thu trong”. Lời thơ tự nhiên, chẳng cần nhiều lời, không uốn éo từ ngữ, cứ như thể đặc điểm sông nước mùa thu chỉ gọi tám con chữ giản dị. Mùa thu ít mưa, mực nước sông hạ thấp, sông êm đềm chảy nên dòng nước trở nên trong. Để ý câu thơ thứ hai, ta dễ thấy nước sông được nhìn qua con mắt thi nhân trở thành nước mùa thu “Nước mùa thu trong”. Bắt gặp trong dòng thu ấy, cảm xúc mau lẹ dâng đầy, tràn lan trong lòng thi sĩ “Hồn thành thu trên đồng”. “Hồn thành thu” nghĩa là gì, nghĩa là tâm hồn, cảm xúc nhuộm không gian, cảnh vật mùa thu. Cái sắc điệu tâm hồn ấy chỉ có thể cảm nhận trong một trường nghĩa với hồn người man mác, tình thơ lâng lâng, thăng hoa như siêu thoát, được Vũ Quần Phương diễn tả ở những câu: “Hồn thành thu trên đồng/ Hồn thành thu như cây/ Hồn thành thu như mây/…”. Kết cấu trùng điệp, lời thơ toàn là thanh bằng, giầu nhạc điệu, khơi cảm giác mênh mang, êm ả, lâng lâng, nhè nhẹ, đậm ý vị mùa thu, đọc lên nghe thích tai. Hồn thành thu của nhà thơ thầm kín, dìu dặt như cây cùng gió thu “Thì thầm tâm sự gió”, lặng lẽ mà tha thiết gắn bó với làng quê ngõ xóm như mây “Âm thầm che ngõ xóm”. Trong khổ thơ thứ hai, theo tôi, hai câu thơ hay nhất:
Hồn thành thu như cỏ
Lặng im nâng dấu giầy
Hay bởi hình ảnh so sánh lạ, bất ngờ, giầu sức gợi. Cái vô hình so sánh với cái hữu hình “hồn như cỏ”. Cỏ lan trên mặt đất, bám vào đất, khiêm nhường lặng lẽ mà giầu nâng niu nhân hậu “Lặng im nâng dấu giầy”
Điều khác lạ so với những bài thơ thu của các nhà thơ khác là, thơ thường tả mùa thu, vịnh mùa thu, bài thơ “Mùa thu trên đồng” của Vũ Quần Phương không theo lối mòn ấy. Tuy thơ có sông thu cạn, nước thu trong, gió thu thì thầm, mây thu lặng lẽ… nghĩa là có nét đặc trưng của mùa thu, nhưng các nét thu ấy chỉ để gợi mùa thu đẹp, là nguyên cớ khơi cảm xúc và tâm trạng, đánh động tâm hồn để tiếng thơ bầy tỏ tình thu, hồn thu của mình.
Nếu ở khổ thơ thứ hai là tâm hồn cảm xúc của nhà thơ lan toả vào không gian cảnh vật, khiến cho “hồn thành thu” thì, ở khổ thơ thứ ba, mạch thơ chuyển biến, thơ thể hiện những suy ngẫm về cái khởi nguồn, cái cội rễ đã sinh thành ra cái “hồn thành thu” kia. Đọc đến khổ thơ này, người đọc dễ nhận ra cái tôi trữ tình với nét phong cách giầu ngẫm nghĩ của thơ Vũ Quần Phương. Mở ra là hình ảnh con đường dẫn về xa. Nhà thơ phân vân hỏi: “Con đường đi về đâu/ Mà gọi lòng ta thế”. Con đường mà nhà thơ hỏi là con đường đi của cuộc đời, cuộc sống. Hỏi đấy nhưng là để bầy tỏ sự gắn bó tha thiết với đời “gọi lòng ta thế”. Thế rồi Vũ Quần Phương muốn lí giải, đâu là nguyên nhân đích thực làm cho ta gắn bó với đời, làm cho hồn ta thành thu nhẹ thênh, bồng bềnh. Nhà thơ đưa ra hai câu hỏi như thể câu hỏi trắc nghiệm: “Trời cao hay gốc rễ/… Quê nhà hay cửa bể”. Có thể hiểu, một trong những nghĩa bóng, nghĩa hàm ẩn của “gốc rễ” là quê hương. Quê hương cũng lại đồng nhất với “quê nhà”. Như vậy chính quê nhà, chính tình yêu quê nhà làm cho hồn thơ Vũ Quần Phương trong “Mùa thu trên đồng” dìu dặt, thăng hoa. Còn “trời cao” nghĩa trực tiếp là trời thu cao, đồng thời còn là sự cao vời linh diệu đóng vai trò tác nhân. Như vậy “Mùa thu trên đồng” là khúc tâm tình về lòng yêu quê hương sâu thẳm của nhà thơ.
Bài thơ có thể kết thúc ngay sau khổ thơ thứ ba mà vẫn hay. Tuy nhiên viết thêm khổ thơ thứ tư làm cho tứ thơ hoàn chỉnh, tăng thêm độ trữ tình sâu lắng. Giờ đây tình thu gắn bó trong mối quan hệ giao cảm “Người bên người gần gũi”, bởi “em” bên “anh”. Hai câu kết đầy ý vị:
Em lặng nhìn chẳng nói
Anh nghe hồn ngân nga
Em chẳng nói, bởi em đang lặng nhìn cảnh thu đẹp, thu mênh mông chiếm ngự lòng em. Em chẳng nói là em nói rất nhiều về tình yêu mùa thu. Còn anh? “Anh nghe hồn ngân nga”. Năm chữ, năm thanh bằng kết thúc bài thơ, diễn tả lòng lâng lâng của hồn thơ dìu dặt. Và nữa, giờ đây bên em, có em làm cho tình yêu, tình thu hoà quyện, tràn ngập, dư ba trong lòng.
Như thế “Mùa thu trên đồng” là bài thơ trữ tình sâu lắng tình yêu thiên nhiên, quê hương, con người là sự đóng góp độc đáo cho vườn thơ thu của thơ ca hiện đại Việt Nam.