Diễn đàn lý luận

Bản giao hưởng của máu, lửa và phẩm giá

Chu Văn Khánh
Tác phẩm và dư luận 16:03 | 29/09/2025
Baovannghe.vn - Cuộc chiến tranh nào cũng tàn khốc, đau thương nhưng có lẽ hiếm có nơi nào trên dải đất Việt Nam hình chữ S này lại phải hứng chịu một mật độ bom đạn hủy diệt khủng khiếp và trở thành biểu tượng bi tráng cho lòng quả cảm vô song của người lính như Thành cổ Quảng Trị trong mùa hè đỏ lửa năm 1972.
aa

Tiểu thuyết Mưa đỏ của nhà văn Chu Lai không chỉ là một bản hùng ca về 81 ngày đêm rực lửa ấy, mà còn là một khúc ai điếu xé lòng cho những thân phận bị nghiền nát trong cỗ máy chiến tranh tàn bạo. Tác phẩm đã khắc họa một cách trần trụi đến tột cùng sự khốc liệt của chiến trường và sự gan dạ, kiên cường phi thường của những người lính Cụ Hồ.

Địa ngục trần gian mang tên “cối xay thịt”

Bản giao hưởng của máu, lửa và phẩm giá
Bìa cuốn MƯA ĐỎ

Chu Lai không hề thi vị hóa chiến tranh. Ông đã không ngần ngại “ném” độc giả vào giữa tâm bão của sự hủy diệt. Quảng Trị không còn là một thị xã yên bình mà đã biến thành một “cối xay thịt” khổng lồ, nơi sự sống và cái chết chỉ cách nhau trong gang tấc. Bầu trời Quảng Trị không còn màu xanh mà chỉ còn lại “màu đỏ lở loét, ngổn ngang, toang hoác” của những hố bom, hố pháo. Sự hủy diệt không chỉ đến từ bom đạn. Mùa mưa lũ ập đến, biến Thành cổ thành một “đáy hồ bị tát gần cạn”. Người lính phải ngâm nửa người trong dòng nước “khăm khẳm”, đối mặt với bệnh tật, ghẻ lở. Môi trường sống trở nên địa ngục theo đúng nghĩa đen, “hôi hám”, “tanh khẳm”, đầy rẫy “mùi vị của thịt thối, xương rò, sinh hơi hoại tử”.

Trong cái lò bát quái ấy, cái chết hiện hữu ở khắp mọi nơi, dưới mọi hình thức tàn khốc nhất: Người lính bị bánh xích xe bọc thép cán qua, bị súng phun lửa phun hóa thành ngọn đuốc sống… Và có lẽ, ám ảnh nhất là sự tan biến của những thân xác không còn nguyên vẹn. Bom pháo không chỉ giết người một lần mà còn “cày lên nhồi xuống tới cả chục lần, mỗi lần là mỗi bay lên một phần thân thể, lần cuối cùng chả còn gì nữa”. Cảnh tượng Cường vô tình giẫm phải “một cánh tay, một cẳng chân, một miếng sọ người còn tóc, một mảng be sườn” là một chi tiết rợn người, khắc họa sự tàn bạo đến cùng cực của chiến tranh.

Những trái tim thép nóng bỏng lửa yêu thương

Giữa địa ngục trần gian ấy, những người lính quân Giải phóng đã hiện lên như những tượng đài bất tử về lòng quả cảm và sức chịu đựng phi thường.

Đối mặt với một kẻ thù vượt trội về hỏa lực, những người lính đã biến sự thiếu thốn thành sức mạnh bằng trí thông minh và sự sáng tạo không ngừng. Sáng kiến “để sẵn vũ khí, lựu đạn ra các điểm... nó lên điểm nào, chạy người không đến điểm đó mà mần” của Tạ đã hóa giải thế bị động, làm tăng hiệu quả phòng thủ lên gấp bội. Mẹo “vun chúng lại” bằng lựu đạn của Cường đã tạo ra một đòn phản công bất ngờ, gây tổn thất lớn cho địch. Hay như cách đánh “bắn bị thương, cứ một thằng bị là mất hai thằng cõng về, ta rảnh tay hơn” của Bình “vổ”, tuy gây tranh cãi, nhưng cũng cho thấy sự tính toán, mưu lược trong từng đường đạn.

Đặc biệt, việc Hải “gù” phát hiện ra đường cống ngầm là một bước ngoặt, một “lối huyết mạch trời cho” đã tạo nên cách đánh “xuất quỷ nhập thần”, giúp bộ đội cầm cự được lâu hơn và giảm thiểu thương vong. Chàng pháo thủ trẻ Mai Quốc Tấn với sáng kiến “nâng phắt nòng cối tì vào vai vào ngực... thả đạn” để bắn thẳng đã biến một loại vũ khí bắn cầu vồng thành hỏa lực chống tăng hiệu quả, bẻ gãy chiến thuật “táng âm” hiểm độc của địch. Chính những “phát kiến” nảy sinh từ thực tiễn sinh tử ấy đã làm nên sức mạnh Việt Nam, một sức mạnh không chỉ đến từ vũ khí mà từ chính trí tuệ và bản lĩnh con người.

Trong cái chết chóc chia lìa, tình đồng đội trở thành thứ thiêng liêng và bền chặt nhất. Nó là sợi dây vô hình níu giữ họ lại với sự sống, với nhân tính. Họ chia sẻ với nhau từng điếu thuốc, từng gói mì tôm, từng nỗi niềm sâu kín. Họ khóc thương nhau khi đồng đội ngã xuống. Chính “tình nghĩa tử sinh đồng đội, những ký ức sâu sắc nằm gai nếm mật đã kết dính chúng con lại, đã hà hơi tiếp sức để cho chúng con biết vượt lên tất cả để đứng vững”, như lời Cường viết trong thư gửi mẹ.

Hoa lửa giữa tro tàn

Giữa khung cảnh địa ngục của Thành cổ, nơi sự sống và cái chết chỉ cách nhau một gang tay, tình yêu giữa Cường và Hồng đã nảy nở như một đóa hoa lửa - rực rỡ, mãnh liệt và bi thương. Cuộc gặp gỡ định mệnh của họ diễn ra trên chuyến đò vượt sông Thạch Hãn dưới làn pháo sáng và những cột nước dựng lên như thủy quái. Hồng, cô xã đội trưởng rắn rỏi, ban đầu còn coi thường chàng sinh viên Hà Nội thư sinh (“Người như anh không chèo được mô”). Nhưng khi Cường giằng lấy mái chèo, cởi phăng áo để lộ thân hình “săn rắn nhếnh nháng nước” và chèo con thuyền đi thẳng qua lằn ranh sinh tử, sự coi thường ấy đã chuyển thành nể phục. Khoảnh khắc Cường bị thương ở vai nhưng vẫn lặng lẽ chèo, không một lời kêu ca, đã thực sự chinh phục trái tim cô gái Quảng Trị.

Tình yêu của họ thực sự được thử thách và đơm hoa kết trái tại trạm phẫu, nơi Cường nằm giữa ranh giới của sự sống và cái chết. Giờ đây, vai trò của họ đảo ngược: anh trở nên yếu đuối, còn cô là nguồn sức mạnh và sự chăm sóc. Cô không chỉ đút cho anh từng thìa cháo, mà còn làm những việc thân mật nhất mà một người y tá phải làm cho thương binh, vượt qua sự ngượng ngùng của một người con gái để cứu sống anh. Chính trong sự chăm sóc tận tụy, trong sự sẻ chia những nỗi đau thể xác và tinh thần ấy, tình yêu của họ đã được bồi đắp. Nó không cần những lời tỏ tình hoa mỹ, nó được thể hiện qua từng ánh mắt, từng cử chỉ ân cần.

Lời yêu của họ cũng được nói ra giữa tiếng bom gầm. Đó là khi Cường thừa nhận anh ở lại mặt trận một phần cũng “vì em”. Và Hồng, trong một khoảnh khắc của sự tuyệt vọng và yêu thương tột cùng, đã trao cho anh những nụ hôn “cuống quýt... khắc khoải”. Lời tỏ tình của cô, dựa trên một tập tục của quê hương (“nếu một người con gái đã nhìn thấy, đã chạm vào... cái ấy của người con trai thì người con trai ấy coi như đã là chồng mình rồi”), là một lời thề nguyền thiêng liêng và cảm động. Giữa một thế giới mà ngày mai là một điều xa xỉ, họ đã tự “cưới” nhau bằng một lời hứa của trái tim, một sự gắn kết còn bền chặt hơn bất cứ nghi lễ nào.

Cuối cùng, tình yêu của họ đã đạt đến đỉnh cao của sự hy sinh. Hồng quyết định theo anh vào trận đánh cuối cùng với lý lẽ giản dị mà sắt son: “chồng ở đâu vợ ở đấy”. Cô không chọn ở lại nơi an toàn hơn, mà chọn được chiến đấu và chết bên cạnh người mình yêu. Và Cường đã trút hơi thở cuối cùng trong vòng tay của cô, lời cuối cùng anh gọi tên mẹ và nói lời yêu cô. Tình yêu của họ, tuy ngắn ngủi, nhưng đã kịp bùng cháy rực rỡ nhất. Nó là minh chứng cho thấy, ngay cả trong địa ngục trần gian, tình yêu thương vẫn là thứ vũ khí mạnh mẽ nhất, là ngọn lửa sưởi ấm và soi đường cho con người vượt qua mọi tăm tối.

Lời vọng từ dòng sông máu

Mưa đỏ không chỉ là một cuốn tiểu thuyết về chiến tranh, mà là một bản cáo trạng đanh thép về sự phi nghĩa và tàn bạo của nó. Chu Lai đã không né tránh việc khắc họa nỗi đau, sự mất mát và cả những góc khuất trong tâm hồn người lính. Từ sự hoảng loạn ban đầu của Tú, sự dằn vặt của Cường đến sự điên loạn của Sen. Hình ảnh đồng đội bị bom pháo cày đi xới lại đã đẩy Sen đến chỗ “điên rồi”, đi lang thang, tru lên “như chó sói”. Nhưng ngay cả trong sự điên loạn, phần người lính trong anh vẫn không chết. Hành động cảm tử cuối cùng, dùng thân mình làm mồi nhử để tiêu diệt kẻ thù đã thiêu sống Hải “gù”, là một sự lựa chọn tỉnh táo, một sự hy sinh để chuộc lại lỗi lầm và khẳng định phẩm giá. Bi kịch của Sen cho thấy sức tàn phá khủng khiếp của chiến tranh đối với hệ thần kinh con người, một vết thương còn đau đớn hơn cả những vết thương thể xác.

Đối lập với Sen là Bình “vổ”, chàng sinh viên mỹ thuật. Ban đầu, anh vẫn giữ được sự lãng mạn, vẫn ao ước có một chiếc máy ảnh để ghi lại những khoảnh khắc “bi tráng”. Nhưng rồi hiện thực đã khiến anh “phát rồ”, đến mức xé nát những bức ký họa tâm huyết của mình. Tuy nhiên, cuối cùng anh đã nhận ra giá trị của chúng, nhận ra rằng nghệ thuật chính là vũ khí để chống lại sự lãng quên, để “thiên hạ biết chúng ta đã sống và chiến đấu cho một mục tiêu cao đẹp”. Cái chết của Bình, khi anh “đứng trên một mô đất cao, chĩa thẳng lên trời... bắn cả băng về phía đàn châu chấu”, là cái chết của một nghệ sĩ - chiến sĩ, một hành động bi tráng và đầy chất thơ.

Cuộc chiến 81 ngày đêm bảo vệ Thành cổ Quảng Trị là một trong những trang sử bi tráng và hào hùng nhất của dân tộc. Và Mưa đỏ là một nén tâm nhang thành kính thắp lên cho những người đã hy sinh vì Tổ quốc, và cũng là lời nhắc nhở cho thế hệ mai sau về giá trị của hòa bình, một nền hòa bình đã được đánh đổi bằng máu và hoa lửa.

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn
Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Baovannghe.vn - Dòng họ Vũ quyết xây lại nhà thờ. Nghe đâu chi phí gần hai chục tỉ, nhất định phải hơn đứt cái nhà thờ mười bốn tỉ rưỡi mới khánh thành của họ Phan. Cả làng xôn xao. Người mừng, người lo. Mừng thì ít mà lo thì nhiều.
Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Baovannghe.vn - Xứ Nghệ là tên gọi quen thuộc chỉ vùng đất thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Cách gọi này chắc có từ khi cả vùng đất đều thuộc trấn Nghệ An, và sau năm 1831, khi đã có tỉnh Hà Tĩnh thì vẫn được dùng cho đến ngày nay.
Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Baovannghe.vn - Khi mặt trời còn chưa ló rạng sau những ngôi nhà đổ nát bởi trận lũ lịch sử, chuyến xe chở 400 thùng sách giáo khoa mới của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam (NXBGDVN) đã vượt hàng trăm cây số, xuyên đêm để kịp về với học sinh xã Hòa Thịnh (tỉnh Đắk Lắk).
Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Baovannghe.vn - Thứ Năm, ngày 4/12/2025, ngày làm việc thứ 35, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV diễn ra tại Nhà Quốc hội, Thủ đô Hà Nội.