Sáng sớm, mùi khói bếp âm ỉ từ ngõ nhỏ len lỏi theo gió thoảng qua mặt ruộng, quyện vào mùi sương mỏng, dắt dìu nắng sớm về ngập ngừng nơi bờ tre. Đó là lúc mạ tôi đang nhóm lò tráng bánh.
Tôi sinh ra và lớn lên ở Phương Lang, một làng quê nhỏ bao bọc bởi cát trắng và gió lào, nơi tiếng gà gáy hòa cùng mùi khói bếp đã thành nét riêng khó lẫn. Cái tên Phương Lang từ lâu đã quen tai người Quảng Trị, gắn với vị dẻo thơm của bánh ướt quê nhà. Ở đây, nhà nào cũng giữ cho mình một lò tráng bánh nhỏ nhắn mà vững chãi, nép mình trong gian bếp thấp, lấp lóa ánh lửa mỗi buổi sớm mai hoặc chiều về.
Cái lò đất cũ kĩ của nhà tôi nằm trầm mặc nơi góc bếp như một chứng nhân thầm lặng của bao mùa rơm khói. Mạ tôi vẫn thường tráng bánh vào buổi chiều muộn, khi ánh nắng cuối ngày vừa rút khỏi hiên để kịp mẻ bánh cho phiên chợ đường xa sáng hôm sau. Ngày nào lò được nhóm từ tinh sương, ấy là tôi biết mạ mệt, chắc chỉ đủ sức ra chợ làng gần nhà. Lò được đắp từ thứ đất sét mịn lấy từ tầng sâu ruộng cũ, rồi nắn bằng đôi tay thạo việc. Nó chỉ cao ngang bắp chân người lớn, chừa một miệng tròn để nhóm lửa. Trên lò là nồi nước sôi, bịt miệng bằng tấm vải trắng căng phẳng, chung quanh treo những chiếc ổ khóa hình quả bầu đong đưa, có nhiệm vụ ghì giữ mặt tráng cho căng đều, không xô lệch.
Chừng ấy vật dụng chất chứa cả một trời tuổi thơ dịu dàng, êm đềm, nơi tôi học được mùi khói bếp, tiếng lửa reo và nhịp tay mạ đều đặn như lời ru thầm. Trong kí ức tôi, lò bánh không chỉ là nơi bánh chín, mà còn là nơi giữ hộ hồn làng, hồn mạ, hồn tôi.
Tôi đã từng cùng mạ đi lấy đất sét ở ruộng sâu. Mạ gánh theo đôi gánh cong cong, chiếc đòn gánh được ba làm từ cây tre già nhất trong bụi, bề bề trên đôi vai vuông vắn của mạ. Tôi lon ton chạy trước, vừa chạy vừa tìm bắt châu chấu, hái những bông hoa dại ven đường. Tiếng chân mạ phía sau, đôi bàn chân nện lên mặt đường bịch bịch. Mạ con tôi đi xuống đồng xa, tìm thửa ruộng sâu nhất mới có đất sét ngon. Mạ lom khom bên bờ ruộng, tay thoăn thoắt nạo từng mảng đất mềm như bột nếp. Mùi ngai ngái nồng nồng bốc lên từ lòng đất vừa được xới. Gió lùa qua mớ rạ rì rào, xào xạc, kéo theo mùi bùn non, mùi nắng. Những thớ đất vỡ ra, tơi xốp, lạo xạo, để lộ những vệt màu ngà xen kẽ màu xám tro lấp lánh. Đó là những bầu đất sét nâu nhẫy, dẻo quánh, nằm tròn vo trong thúng. Trên đường về, đôi gánh tròng trành theo từng bước chân, phát ra thứ âm thanh lạch cạch, lạch cạch. Tôi líu ríu ôm một vắt đất trong tay, chạy theo bước chân mạ. Mỗi bước là một tiếng lép nhép vang lên giữa đồng chiều trống vắng.
Đất sét lấy về được tắm táp qua đêm dưới sương. Lúc nhỏ, tôi đồ rằng đi lấy đất về mệt nên mạ chưa quết lò vội; mãi sau này tôi mới hiểu, đất lên khỏi mặt nước cần khoảnh khắc giao hòa với trời để trở nên sánh mịn, đặc dẻo. Sớm hôm sau, ba mạ bắt đầu nhào đất, nhồi nhuyễn, lật lộn, tiếng bì bõm vang lên theo từng nhịp giẫm chân phành phạch. Gàu nước dội xuống từng hồi, khiến đống đất càng thêm nhão nhoẹt, sền sệt, trơn như da cá lóc, sau đó đem trộn thật đều, thật khéo với trấu tươi. Ba quỳ gối, tay phát vả, quăng quật, từng nắm đất được quết mạnh theo đường tròn tạo thành cái chum úp ngược. Những mảng sét dính bệt, ken đặc, từng đường vân tay hằn lại trên mặt lò như dấu tích của tháng ngày. Lưng áo ướt đẫm, dính quện những mảng đất khô, mồ hôi lấm tấm, rịn rịn, trộn với bụi tro bếp lem nhem.
Chân lò được xây bằng gạch cũ, khấp khểnh, lồi lõm, nhiều viên đã sứt mẻ nhưng vẫn chắc nịch. Cách chân lò chừng bốn chục phân, một chiếc nồi lớn được đặt ngay ngắn trên các viên gạch làm điểm tựa. Đó là cái nồi to nhất, dáng tròn lẳn như trái bầu già, được chọn riêng để đảm nhiệm công việc nặng nhọc. Trên nước, dưới lửa, lúc nào cũng sôi sùng sục, oằn oại giữa hai đầu nóng lạnh. Trết lò xong là lúc tiếng chổi chà xoèn xoẹt, tiếng đất vỡ rộp rộp vang lên. Ba tôi dùng tay đập vào thân lò đồm độp, thịch thình. Lò đất cứ thế mà dần hiện hình, bầu bĩnh, lù lù. Miệng lò phình ra, cái miệng há ngoác, đen thui, phập phồng như bụng chú ếch no cơn mưa.
Toàn bộ công việc đắp lò diễn ra chóng vánh, dồn dập trong buổi sáng. Tiếng trấu lạo xạo trộn với đất sét nhuyễn vang lên lẫn với tiếng xẻng va lạch cạch, tiếng ba gọi mạ, tiếng bước chân thoăn thoắt trên nền đất. Cả sân nhà sực nức mùi trấu ẩm, mùi đất sét mới bốc lên ngai ngái, nồng nàn như mùi của ruộng đồng đang độ phù sa. Tôi trở thành chân sai vặt, đứng ngó nghiêng, thi thoảng chạy vụt đi lấy gáo nước, đưa thêm bó rơm, cục đất hay nhặt vài món đồ khi ba ngoắc tay gọi. Nhìn cái lò đất tượng hình trong ánh chiều, tôi thấy được sự lặng lẽ mà sâu sắc của những người dân quê, ở đó có ba mạ tôi.
Để tráng bánh kịp phiên chợ, mạ thức từ tờ mờ sáng, đôi mắt vẫn còn mộng mị của một đêm nhức mỏi. Lửa bập bùng, tiếng nước sôi rì rào như lời trò chuyện quen thân giữa người đàn bà và cái lò đất già nua. Bột gạo được xay trước một ngày, ngâm vừa chín, đặc quánh như sữa. Mạ dùng cái vá lớn đảo từng vòng tròn đều để bột được hòa quyện trở lại. Lớp bột lặng lẽ chuyển động dưới tay, chỉ một lát sau, bột đã trở nên mượt và đều như ý, không còn lắng cặn, không gợn vón nào. Mạ múc một vá bột đầy, nghiêng tay thật khẽ để bột rơi xuống mặt vải căng sẵn trên miệng nồi. Dòng bột chảy ra như một dải lụa trắng, rót vào giữa mặt vải. Mạ xoay nhẹ cổ tay, rê bột theo hình vòng tròn, từng vòng, từng vòng một, đều đặn và tinh tế như nét vẽ của người thợ lành nghề. Bột nhanh chóng lan rộng, phủ một mặt tròn mỏng tang, mịn màng, không quá dày, cũng chẳng hề loang lổ. Nắp nồi được đậy lại sau đó. Lửa đượm, nước sôi sùng sục, bốc hơi rần rật. Một cái que tre vót mỏng, bỏ phần ruột, chỉ dùng phần cật cho dẻo dai, lướt êm ru trên mặt vải. Đều tay. Nhanh. Gọn. Từng chiếc bánh chín, thơm mùi lúa gạo. Mạ khéo léo dùng cái que tre nhỏ luồn vào giữa hình tròn, nhấc tấm bánh ướt trong suốt trên mặt vải rồi từ từ trải lên tàu lá chuối đã hơ nóng. Thanh tre rê thật uyển chuyển để bánh dàn đều, không bị vón, không bị rách. Cứ thế, lớp này chồng lớp kia, trắng nõn, dẻo quánh, mềm mịn.
Dưới mái bếp thấp lè tè, khói quẩn quanh, cay xè, từng làn mỏng như tơ nhện vờn vờn giữa ánh sáng mờ đục hắt vào từ tấm liếp nghiêng. Cái lò đất xù xì, nứt nẻ nằm âm ỉ trong góc, đỏ lừ bên trong, miệng lò há hốc như một con thú già đang thở dốc. Trên mặt lò, nồi nước sôi sùng sục, hơi nước ngùn ngụt bốc lên, vờn lấy tấm vải căng tròn, nơi từng chiếc bánh ướt ra đời mang theo mùi khói rơm, mùi tro bếp, mùi củi mục, mùi của buổi sớm mai lặng lẽ và bền bỉ. Mạ ngồi lom khom, tay thoăn thoắt, hơi nóng phà vào mặt, mồ hôi rịn rịn từ trán chảy xuống má, rồi rớt tỏm lên nền đất ẩm ướt, vang lên một tiếng “tách” nhỏ xíu hòa vào thanh âm của buổi sáng làng quê.
Lần nào tráng bánh, mạ cũng để dành lại một ít bột ở đáy chậu cho tôi tập tành. Tôi chăm chú bắt chước từng động tác của mạ, tay xoay vá, đổ bột, dàn đều nhưng thành quả thì… méo mó tội nghiệp. Bánh của tôi trong dày ngoài mỏng, chỗ bèo nhèo, chỗ phình to, có cái như bị lõm, có cái rách bươm ngay khi nhấc ra. Những chiếc bánh non nớt ấy nằm chồng chất trên khuôn, dúm dó, chẳng ra hình thù gì. Nhưng mạ vẫn cười: “Tập riết rồi khéo tay cho mà xem, tráng bánh không chỉ là việc làm ra cái bánh, mà là giữ lửa cho nhà mình.”
Bánh ướt là món quà quê quen thuộc. Người trong xóm ăn sáng bằng đĩa bánh nóng hổi, cuốn với dưa món, thịt heo, rau sống, chấm nước mắm pha tỏi ớt. Bánh ướt có mặt trong mọi dịp quan trọng của mọi gia đình như đám cưới, đám hỏi, giỗ chạp, ngày Tết… Những ngày trái gió trở trời, mạ thường bán bánh ở chợ quê. Ngày khỏe mạ rong ruổi cùng giỏ bánh trên chiếc xe đạp đi khắp chợ Cạn, chợ Hôm, ra tận thôn Một, thôn Hai Triệu Lăng, ngược về Triệu Vân, xuôi lên Triệu Tài. Có ngày lặn lội ra tận Đông Hà, Cam Lộ. Bánh bán xong gặp lúc đường về ngược gió, oằn lưng đạp mấy chục cây số, về tới nhà lại lật đật xay bột chờ mẻ bánh ngày sau. Có hôm bán ế, mạ trở về, mệt mỏi, xếp từng tấm bánh cho cả nhà ăn đỡ bữa cơm chiều. Cái nghề tráng bánh lò đất của mạ nuôi cả nhà tôi qua những tháng ngày chắt chiu. Mạ bảo ba mạ làm nhiều nghề nhưng vẫn gắn bó với nghề tráng bánh ướt. Gạo tự xay, củi nhóm cũng là những cây khô mót sau vườn, trên rú. Chỉ có công là không kể xiết. Nhưng mạ bảo, người ta ăn ngon, khói bếp nhà mình ấm đều mỗi sớm là lòng yên.
Hồi nhỏ, mùi khói lò đất bám vào tóc, vào áo, vào bàn tay lúc nào cũng đen kịt nhọ nồi. Tôi ghét cái mùi khói, ghét đôi tay đen nhẻm tro than, ghét cái lưng còng xuống mỗi khi đổ bột, ghét cả cảnh rửa ráy nồi niêu, thau chậu, giặt giũ từng tấm vải, làm sạch cái bếp lò sau mỗi mẻ bánh tráng xong. Nhưng rồi, nhìn thấy ba về nhà sau những buổi ruộng sâu, nhẩn nha cuốn bánh mạ tráng, ăn chậm rãi rồi gật gù “Bánh tráng bằng bếp lò ngon quá. Lửa nhà mình thơm dữ dằn, mạ mày ạ.” Tôi lại thấy lò bánh ướt là cách để ba mạ sống gần nhau, san sẻ và yêu thương hơn.
Mạ không còn tráng bánh nữa. Cái lò đất năm nào đã nứt nẻ, lở loét vì mưa nắng. Trong góc bếp, nó như một tượng đất thiêng, im lìm kể chuyện cũ. Bánh bây giờ đã được công nghệ hóa, tráng bằng máy, chỉ cần đổ bột vào là những mẻ bánh chạy ra đều đặn, những nhát dao nằm chực sẵn chờ cắt từng chiếc bánh vuông vắn (không phải hình tròn như bánh tráng bằng lò). Người thợ ngồi bên cạnh đường chuyền, nhanh nhẹn lấy bánh và cuốn vào khuôn. Bánh có mặt khắp các chợ quê, trắng tinh, đều như in nhưng thiếu cái hồn của khói sớm, của giọt mồ hôi người đàn bà từng nhóm lửa lúc trời chưa thức giấc. Tôi vẫn nhớ, lần cuối mạ tráng bánh là ngày giỗ nội. Một lát bánh ướt mỏng, cuốn tròn với chén nước mắm pha theo đúng vị ông thích. Tôi thấy tay mạ run run. Mùi bánh còn vương khắp nhà. Trong khoảnh khắc ấy, tôi bỗng hiểu, có những điều mất đi rồi vẫn có thể giữ lại bằng cách sống trọn vẹn với kí ức.
Ngày ba đập bỏ lò bánh cũ để sửa lại căn bếp, mạ ngồi bên hiên, lặng thinh như một nắm tro tàn không gió. Tiếng búa đập chan chát vang lên giữa trưa hè, chẳng khác gì tiếng thời gian đang rạn nứt. Lò nguội. Bếp lạnh. Và trong khóe mắt mạ, một biển nước đang chực tràn. Mạ không dọn, không lau, không một lần chạm tay vào cái bếp lò như thể chỉ cần chạm nhẹ thôi, những kí ức sẽ vỡ òa, nước mắt sẽ cuốn trôi mọi kìm nén, mọi tháng năm mạ cùng người bạn đường lặng lẽ thổi lửa.
Tôi trở về, bếp xưa lặng gió, mùi khói lò đất thơm thoảng đâu đây như sợi tơ mong manh kéo tôi về những ngày thơ bé. Mạ ngồi bên tôi, nhẩn nha xé bánh, kể chuyện một thời gánh gạo xay bột, đêm mưa lội nước vẫn không dám để nguội cái lò. Mắt mạ mờ rồi nhưng trong đáy mắt ấy vẫn còn giữ nguyên một ngọn lửa âm ỉ, ngọn lửa của người đàn bà đã sống một đời đầy kiên nhẫn và yêu thương từ trong khói bếp. Mùi bánh ướt, mùi khói, mùi hầm hập của cái lò đất nóng ran đã tráng một lớp kí ức mỏng tang nhưng thơm thảo suốt cuộc đời.
![]() |
| Minh họa Ngô Xuân Khôi |