Đó là lời của các cụ ông ở cồn Nhỏ nói với chúng tôi khi mở đầu câu chuyện về làng quê mình. Trong đó có niềm tự hào về mảnh đất đã sanh ra vị anh hùng, nhưng dường như có một chút trăn trở khi làng quê vẫn chưa được nêu tên chính xác, dẫu đã nhiều chục năm. Bởi, tên quê hương xứ sở luôn là điều rất đỗi thân thương của mỗi con người. Làng quê bị “lãng quên”, dù chỉ là vô tình, nhưng cũng khiến người ta chạnh lòng!
Người khách lạ như tôi đã rong ruổi miệt cù lao bắt đầu từ nỗi niềm như thế.
Phú Bình là xã nằm ven sông Hậu, thuộc huyện Phú Tân, tỉnh An Giang(*). Huyện có địa thế khá đặc biệt, đó là một cù lao lớn nằm giữa sông Tiền ở phía Đông và sông Hậu ở phía Tây. Nhà văn Võ Diệu Thanh - một người Phú Tân nói với chúng tôi rằng, dường như đời sống dọc theo sông Tiền có phần sung túc và nhộn nhịp hơn phía sông Hậu. Điều đó có lẽ không khó để lí giải. Bởi, huyện lị của huyện Phú Tân - thị trấn Phú Mỹ nằm bên bờ sông Tiền. Từ đây, ta chỉ cần qua sông Vàm Nao bằng phà Thuận Giang sẽ đến thị trấn Chợ Mới - huyện lị của huyện Chợ Mới. Hoặc nếu đi tiếp dọc theo sông Tiền khoảng 40 cây số về hướng Bắc, ta sẽ vào nội ô thị xã Tân Châu. Với vai trò là tuyến đường thủy và bộ kết nối các đô thị, rõ ràng nhịp sống ở các làng xã dọc theo sông Tiền có phần sôi động hơn. Trái lại, các làng xã ở cánh sông Hậu vẫn lặng lẽ, dọc cung đường chẳng có đô thị nào tương đối lớn. Phải chăng, vì sự tác động của đô thị không nhiều, nên không gian miệt vườn còn khá đậm nét ở nơi đây. Phú Bình đã hít thở bầu khí quyển như thế.
Xã Phú Bình được tách ra vài chục năm, từ một ngôi làng đã hàng trăm năm tuổi. Hồi chưa chia tách, cồn Nhỏ là miệt hẻo lánh, xa trung tâm của làng Bình Thạnh Đông, những nhu cầu sinh hoạt đều hạn chế, sự phát triển khá chậm chạp so với mặt bằng chung của cả làng. Trong hoàn cảnh đó, lại thêm chiến tranh vừa kết thúc vài năm, việc chia tách khiến xã mới Phú Bình thiếu thốn trăm bề, vì mọi tiện nghi đều tập trung ở trung tâm xã Bình Thạnh Đông. Thậm chí, ngay cả các cơ sở tín ngưỡng - tôn giáo, vốn là “cái nôi” nuôi dưỡng văn hóa cộng đồng, cũng thiếu vắng!
|
Duy một điều mà người dân cồn Nhỏ không thôi tự hào, đó là nơi sanh ra anh hùng dân tộc Trần Văn Thành. Ông từng giữ chức Chánh Quản cơ trong quân đội triều Nguyễn ở tỉnh An Giang. Lúc quê hương thanh bình, ông chiêu mộ dân chúng khai phá đất hoang để canh tác và định cư. Khi Pháp xâm lược đất nước, ông trở thành thủ lãnh nghĩa binh Gia Nghị, kháng chiến ở miệt Láng Linh - Bảy Thưa. Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại, nhưng những anh hùng chân đất đã đi vào huyền thoại. Riêng chủ tướng Trần Văn Thành được người An Giang tôn kính như vị phúc thần bảo hộ làng quê, họ gọi ông một cách tôn kính mà thân thương là Đức Cố Quản, ngắn gọn hơn là Đức Cố, thậm chí là Ông Cố. Trăm năm đi qua với biết bao thăng trầm, người cồn Nhỏ vẫn cố gắng gìn giữ nơi tương truyền là nền nhà cũ của gia đình Đức Cố Quản. Có lúc trước họng súng kẻ thù, họ chỉ đành dùng bốn cây cọc cắm xuống đất để đánh dấu, mà chẳng thể đặt một lư hương. Có sao đâu, người chết vì dân sẽ sống mãi cùng dân, giờ đây nơi ấy đã trở thành dinh thờ trang nghiêm, quanh năm khói hương không ngớt.
Là xã mới, mọi thứ dường như bắt đầu từ con số không, phải chăng chính tình cảm - tâm linh sâu lắng đó đã vực dậy người dân Phú Bình? Đi và chiêm nghiệm, tôi dường như lờ mờ trả lời được phần nào câu hỏi ấy.
Khách đến đây, Phú Bình có gì để giới thiệu cho họ? Dĩ nhiên, trước hết là dinh thờ Quản cơ Trần Văn Thành - niềm tự hào của địa phương. Song, một điều nữa mà người Phú Bình không thể bỏ qua khi nói về làng quê của mình, đó là làng nghề bó chổi bông sậy cồn Nhỏ - một trong những làng nghề tiểu thủ công nghiệp tiêu biểu của tỉnh An Giang.
Người cồn Nhỏ kể, nghề bó chổi bông sậy có tuổi đời khoảng bảy mươi năm. Ban đầu, nó bắt nguồn từ đặc điểm vùng đất có nhiều lau sậy mọc um tùm, một số thanh niên bèn nghĩ ra việc làm chổi từ bông lau, bông sậy. Dần dà, cái nghề dân dã ấy càng thu hút nhiều hộ dân lựa chọn. Đến nay, làng nghề có trên ba trăm cơ sở sản xuất, với cả ngàn người lao động tham gia.
Chổi bông sậy được sản xuất quanh năm, bình quân mỗi tháng cả làng nghề sản xuất khoảng hai trăm ngàn cây. Song, mùa làm ăn tất bật nhứt trong năm là vào cuối năm Âm lịch, từ tháng Mười đến tháng Chạp. Đó là thời điểm mà làng nghề phải cung ứng số lượng lớn sản phẩm cho các thương lái, phục vụ nhu cầu dọn dẹp nhà cửa đón Tết của người dân khắp nơi. Ngoài tiêu thụ ở thị trường nội địa, chổi bông sậy cồn Nhỏ còn xuất khẩu với số lượng lớn sang các quốc gia ASEAN như Cambodia, Thái Lan, Indonesia…
“Không có cái nghề nầy, chắc dân ở đây chết đói hết!” Một thanh niên là nhân công bó chổi nói thế, vừa nói anh vừa cười hịch hạc. “Chết đói” có lẽ là cách nói vui, rất dân dã kiểu miền Tây. Thật sự người dân không đến nỗi chết đói. Tuy vậy, tôi hiểu ý bà con ở đây muốn khẳng định vai trò quan trọng của cái nghề bình dân nầy đối với đời sống của họ. Chẳng những nó tạo công ăn việc làm, “nuôi sống” người dân, mà còn góp phần phát triển kinh tế xã Phú Bình.
|
Thực tế là nhiều địa phương ở miền Tây hiện nay, đông đảo người lao động di cư đi làm ăn xa, phần lớn đến Đông Nam Bộ. Trái lại ở Phú Bình, làng nghề bó chổi giúp nhiều người dân ở lại với quê hương. Một số thanh niên di cư đi làm ăn xa, nhưng rồi lại trở về Phú Bình, quyết định bám trụ với làng nghề quê nhà. Nguồn thu nhập từ nghề truyền thống có thể không quá cao so với đồng lương công nhân ở khu công nghiệp, nhưng bù lại công việc ổn định, ít tốn kém các chi phí ăn ở, đi lại, sinh hoạt… lại có thể dễ dàng chăm sóc gia đình.
“Chắc Đức Cố độ cho dân ở đây có cái nghề nầy!” Đó là lời của một cụ ông ở Phú Bình nói với chúng tôi. Không biết do niềm tin tâm linh sâu sắc của người thời trước, hay sự thâm trầm của người có tuổi, mà ông nhận định như thế. Nhận định đó có chủ quan không? Tôi không dám đánh giá. Song, câu nói ấy gợi cho tôi một cái nhìn thú vị. Sử sách từng mô tả cánh đồng Láng Linh là nơi sình lầy ngập úng, còn khu rừng Bảy Thưa có vô số cây thưa - một loại cây bản địa mọc rậm rạp. Xung quanh đó, lau sậy mù mịt. Tất cả như cộng hưởng, che chắn cho nghĩa binh Gia Nghị trước sự lùng sục của kẻ thù.
Và cần nhớ lại, Đức Cố Quản sanh trưởng ở cồn Nhỏ, cũng là nơi lau sậy mọc um tùm. Đến vài mươi năm trước, người ta còn nhìn thấy hình ảnh ấy, huống gì cách đây hàng trăm năm. Biết đâu được ở thời thơ ấu, Đức Cố Quản từng gắn bó với những hàng lau sậy ven sông và đám trẻ thơ hồn nhiên đùa giỡn, dùng lau sậy chơi trò tập trận giả. Để rồi, tuổi thơ bình dị ấy đã kiến tạo nên tình yêu quê nhà, đất nước và hun đúc thành khí phách hiên ngang của vị anh hùng. Đức Cố Quản và lau sậy có phải đã hữu duyên từ lâu lắm?
Bởi thế, ý nghĩ của bà con Phú Bình vậy mà hay! Dù người ta không thể chứng minh được điều đó đúng, nhưng nhờ có ý nghĩ ấy, họ vững tin hơn về làng nghề. Dẫu có lúc thuận lợi hay khó khăn, người cồn Nhỏ vẫn cố gắng giữ nghề, sống với nghề, bởi họ tin có Đức Cố độ.
Trở lại dinh Đức Cố, tôi lại biết thêm câu chuyện khác, cũng là niềm tự hào của người dân Phú Bình. Đó là chuyện từ thiện.
Dinh Đức Cố như mái nhà thứ hai của người dân vùng nầy. Ai đến đây cần ăn được đãi ăn, cần ngủ có chỗ ngủ, kể cả nhà tắm, nhà vệ sinh… tất cả đều miễn phí. Và điều đó được áp dụng ở bất kì thời điểm nào trong năm dù ngày lễ hay ngày thường, bất kể khách là ai dù người địa phương hay kẻ xa lạ, người sang, kẻ nghèo… Nguồn kinh phí phục vụ cho các hoạt động của dinh được bá tánh thập phương đóng góp.
Ngoài ra, người Phú Bình cũng đi đầu trong các hoạt động thiện nguyện khác như hiến đất làm đường, cất nhà tình thương, xe cấp cứu miễn phí, hỗ trợ quan tài cho người mất có gia cảnh khó khăn… Đơn cử như Đội Mai táng xã Phú Bình, ra đời từ cuối năm 2011, đến nay đã có hơn chục năm lo hậu sự miễn phí cho bà con nghèo. Đời sống của các thành viên trong đội khác nhau, duy chỉ có một điểm chung là lòng thương người. Tham gia đội, mỗi người một việc như mua gỗ, đóng quan tài, mua vật phẩm tẩn liệm, thực hiện hậu sự, đưa quan tài đi an táng… Bất kể đêm ngày, hễ nơi nào có người cần hỗ trợ, đội đều có mặt và giúp đỡ vô điều kiện.
“Mình là con cháu Đức Cố mà, sống như Đức Cố sống, làm như Đức Cố làm.” Chú Mười Mưa, một trong những cụ cao niên ngày ngày lo hương khói cho dinh Đức Cố nói vậy. “Con cháu Đức Cố” là quan niệm rất phổ biến ở Phú Bình, từ già đến trẻ đều nói vậy, chứ không chỉ mỗi mình chú Mười Mưa. Dẫu không cùng họ, nhưng người dân cồn Nhỏ đã mặc nhiên xem mình như con cháu bậc anh hùng, hay đúng hơn chính hồn thiêng của vị danh tướng đã nuôi lớn đời sống tinh thần của người dân cồn Nhỏ.
“Và làm tiếp những hoài bão của Đức Cố còn dang dở.” Tôi tiếp lời. Những gì là tâm nguyện chưa trọn vẹn của Đức Cố Quản? Đó là đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi bờ cõi, xây dựng đời sống ấm no cho muôn dân, làm những gì tốt đẹp cho cộng đồng mà chẳng màng lợi ích riêng tư. Những người con Phú Bình hôm nay đã và đang thực hiện những ước mơ đó.
Cồn Nhỏ đã sanh ra những con người tầm vóc lớn, đó là anh hùng Trần Văn Thành bất khuất trước quân thù, là những thế hệ con cháu hôm nay làm nên kì tích từ sản vật đơn sơ của đồng nội, là muôn tấm lòng thơm thảo bao dung. Tôi nghĩ, gọi “người lớn” không nhứt thiết họ làm những chuyện quá kì vĩ, mà là những chuyện khó có người làm được. Giữa giấc ngủ ngon, lại vội vàng thức dậy lo hậu sự cho người không quen biết, liệu mấy ai làm được? Ngày xưa, người cồn Nhỏ sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn, ngày nay cũng thế, nhưng ngoài ra họ còn sẵn sàng vươn mình ra biển lớn.
Câu chuyện đất và người cồn Nhỏ khiến tôi nghĩ mãi về hình ảnh những bụi lau sậy ven sông. Lau sậy mềm mại mà uyển chuyển, có thể đứng trong nắng, trong mưa, trong gió không gục ngã. Trăm năm trước, chúng là rào chắn vững vàng trước kẻ thù xâm lược, trăm năm sau trở thành làng nghề vững bền cho sự phát triển của quê hương. Có lẽ đó cũng là phẩm chất của người cồn Nhỏ. Họ đã đi qua chiến tranh, chia tách, nghèo đói và nhiều lắm những gian truân khác nữa. Thế nhưng, họ cứ như lau sậy bên bãi sông ngày tháng cũ, tuy nhẹ nhàng mà khí chất hiên ngang.
Cồn Nhỏ nhưng người đâu nhỏ bao giờ!
...........................................
(*) Xã Phú Bình nay sáp nhập cùng xã Bình Thạnh Đông và xã Hiệp Xương lấy tên là Bình Thạnh Đông, tỉnh An Giang.