So với giai đoạn đất nước có chiến tranh (1945-1975), văn học, nghệ thuật nước ta hiện nay đang có những biến đổi, biến động, tự vận động mạnh và sâu, đang nỗ lực tự vượt mình, tự đổi mới mình trên nhiều phương diện, đặc biệt thể hiện ở tư duy sáng tạo mà có người gọi là sự biến đổi của hệ hình tư duy. Song, nếu nhìn từ đổi mới đến nay, mặc dầu đã qua hơn 30 năm, sự biến đổi đó chưa dẫn tới sự định hình, không ít tác giả còn đang trong giai đoạn tự tìm tòi, thể nghiệm, trong đó có cả người không tự vượt được chính mình hoặc “đứt gánh” giữa chừng, phải tìm một hướng mới…
Nhìn tổng quát, có thể nhận thấy hai xu hướng lớn của sự biến đổi. Một là, các đề tài quen thuộc, “truyền thống” được nhìn nhận, khám phá và thể hiện theo hướng mới, hệ hình tư duy khác trước. Hai là, sự bộc lộ, thể hiện và “khúc xạ” ngày càng mạnh và sâu thế giới tinh thần, “nội cảm” của nhà văn trước tác động đa chiều, phức tạp của hiện thực. Thử tìm hiểu các biểu hiện cụ thể của hai xu hướng trên qua một số tác phẩm văn học xuất hiện mấy năm gần đây.
Đề tài lịch sử (cả xa xưa và cả kề cận hiện tại) được nhiều nhà văn trở về với tâm thế mới, cách nhìn mới. Có cách thể hiện cố gắng cao nhất trung thành với lịch sử, với quá khứ chiến tranh của người trong cuộc, đặc biệt là các nhật ký, hồi ký. Những nhật ký, hồi ký như Được sống và kể lại (Trần Luân Tín), Nhật ký đời lính (Nguyễn Đình Thắng), Đi qua chiến tranh (Vũ Bình Lục), Hà Nội - mũ rơm và tem phiếu (Trung Sĩ), Sống thời bao cấp (Ngô Minh), Kỷ vật của cha (Võ Văn Trường)... đều đi theo hướng ấy. Một số tác phẩm văn xuôi, đặc biệt tiểu thuyết lịch sử, cũng xuất phát từ cảm hứng tái hiện chân thật quá khứ dựa trên nỗ lực tìm hiểu lịch sử và cảm nhận mới của người viết, như Chủ đất (Chu Thị Minh Huệ), Số phận không định trước (Nguyễn Khắc Phê), Chuyện năm 1968 (Trầm Hương), Gió Thượng Phùng (Võ Bá Cường), Tháng năm sen nở (Cổ Nguyệt Quang), Lửa bên dòng Cổ Chiên (Triệu Văn Bé), Hùng binh (Đặng Ngọc Hưng), Gió bụi đầy trời (Thiên Sơn)... Không chỉ tiểu thuyết mà nhiều truyện ngắn về đề tài lịch sử được xuất bản từ 1986 đến nay cũng đi theo hướng trên...
Cái mới trong việc trở về đề tài lịch sử không phải nhằm giải thiêng lịch sử mà khám phá chiều sâu, tính cụ thể lịch sử, những vấn đề của chính lịch sử mà tác giả suy nghĩ ngẫm, phát hiện và đặc biệt là nhìn nhận con người lịch sử - quá khứ trong tính hiện thực, đa chiều của nó, làm rõ và sâu hơn số phận những con người bình thường trong lịch sử đó. Âm vang của một thời kỳ lịch sử, nỗi đau, sự hy sinh của con người và sự nhắn nhủ đau đớn với con người đang sống hôm nay về những hy sinh, mất mát trong quá khứ! Những tiểu thuyết lịch sử của Nguyễn Xuân Khánh, Hoàng Quốc Hải, Uông Triều, Vũ Ngọc Tiến, Phạm Quang Đẩu, Lê Hoài Nam, Chu Thị Minh Huệ… ở mức độ và hiệu quả nghệ thuật khác nhau, đều đi theo hướng trên. Những con người hiện thực dưới cái nhìn tỉnh táo, đa chiều, nhân văn đã hiện lên chân thật trong những tác phẩm trên, cái đại tự sự cũng ẩn sâu trong đó.
Cùng với sự xuất hiện và những kết quả đáng mừng của các thể loại nhật ký, hồi ký, các tiểu thuyết về đề tài lịch sử; những tác phẩm viết về cuộc sống hiện tại, hiện thực hôm nay cũng thể hiện rất rõ sự biến đổi sâu sắc của tư duy nghệ thuật trên hai phương diện: sát gần với hiện thực, nhìn nhận cuộc sống và số phận con người trong tính đa chiều của nó và sự bộc lộ ở mức độ đậm sâu thế giới nội cảm của người sáng tạo trước tác động hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp của đời sống. Thật bất ngờ với cảm hứng đời thường và không có vẻ gì là “sáng tạo”, nhưng lại có sự phát hiện thông minh mà nhẹ nhàng qua tác phẩm với cái tên cũng rất đời: Chuyện của các nhân vật có thật trên đời của Võ Thị Xuân Hà. Nhiều tập truyện ngắn, đặc biệt là của các nhà văn nữ, mặc dầu không kể lại “nhân vật có thật” như Võ Thị Xuân Hà nhưng đều có chung một cảm hứng: tập trung phát hiện và tái hiện số phận thật của con người với tất cả nỗi đau, sự chịu đựng, nỗ lực vượt qua số phận, giữ gìn những gì tốt đẹp còn lại trong phẩm chất vốn có của họ và cả những bi kịch giáng vào cuộc đời họ. Qua việc khắc họa các số phận đó, tác giả đồng thời lên án quyết liệt những cái xấu, cái ác, những kẻ biến chất, thoái hoá.... Có tác phẩm khá thành công và có cả những tác phẩm còn trong quá trình tìm kiếm, hoặc theo hệ hình tư duy truyền thống hoặc cố gắng tự - vượt mình, vì thế những tác giả dẫn chứng sau đây chỉ nhằm nói về xu hướng mới trên, mà không có ý đánh giá cụ thể từng tác giả. Đó là Đinh Phương, Nguyễn Trọng Tân, Hải Chi, Văn Lừng, Hiền Hòa, Trác Diễm, Nguyễn Bình Phương, Phạm Xuân Đào, Nguyễn Trí, Thăng Sắc, Nguyễn Thị Bích Vượng, Mộc Miên, Đặng Lưu San, Cao Thanh Mai, Hoàng Nhật Tuyên, Ngô Thanh Vân, Hồ Văn, Tống Ngọc Hân, Tô Nguyên Ngã, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thị Minh Hoa, Nguyễn Thị Loan, Đào Phạm Thuỳ Trang, Diệu Ái, Bảo Thương, Lâm Vân An, Võ Thị Xuân Hà, Bích Ngân, Trần Văn Tuấn... Họ có vị trí rất khác nhau trên văn đàn, sống và viết ở nhiều vùng miền trên cả nước song phần lớn đều lựa chọn viết về đời thường, hằng ngày, đều xây dựng những nhân vật hiện thực được soi chiếu từ nhiều góc độ khác nhau, đa chiều để tạo nên những hình tượng sát gần với cuộc đời thực, không tô vẽ, không lý tưởng hóa, không lãng mạn hóa theo cách tư duy vốn khá phổ biến trước đây.
Nếu trong những tác phẩm của các tác giả trên, hiện thực trần trụi trộn lẫn ánh sáng và bóng tối, thiện và ác và số phận con người được phát hiện ở tận chiều sâu, phức tạp của nó, có nghĩa là hiện thực được tái tạo trong cảm nhận, đánh giá riêng của người viết, song vẫn giữ vị trí nổi trội, thì những năm gần đây, lại xuất hiện những tác phẩm đi theo chiều hướng ngược lại. Ở dạng thứ hai, hiện thực trực tiếp lùi lại phía sau, đôi khi chỉ cảm nhận thấy bóng dáng của nó, mà nổi trội lên là thế giới nội cảm, nghĩ suy, trăn trở, cảm xúc - buồn, vui, xót đau, băn khoăn, dằn vặt... có tính chất cá thể, cá nhân của người viết... Quá trình đó chưa thể kết thúc, chưa thể định hình và không phải là độc tôn, mà cùng với dạng thứ nhất (đã trình bày ở trên) tạo nên bức tranh đa sắc của sự sáng tạo trong giai đoạn văn học đang tự vượt mình này... Xin tạm lấy một số dẫn chứng để minh chứng- trong sự chưa thật chắc chắn lắm - cho xu hướng trên. Về văn xuôi, các tác phẩm Sương gió bơ vơ (Nguyễn Hồng Tình), Người đàn bà vẽ hoàng hôn (Trác Diễm), Những thành phố trôi dạt (Nguyễn Vĩnh Nguyên), Trăng tang (Trusa), Ngôi nhà của cỏ (Nhuỵ Nguyên), Những cánh cửa đều mở (Tiểu Quyên), Những đoá hoa lạ nhà (Hồ Huy Sơn), Tôi cần một cái khuôn khác méo mó cũng được (Lê Bùi Thảo Nguyên), Sóng có bao giờ thẳng (Bùi Tiểu Quyên), Biên sử nước (Nguyễn Ngọc Tư)... Về thơ, Dưới trăng và một bậc cửa (Nguyễn Quang Thiều), Thời tái chế (Mai Văn Phấn), Sa Hồng (Nguyễn Linh Khiếu), Lũ buồn hoang (Miên Di)...
Những thể nghiệm sáng tạo không phải ai cũng đạt tới thành công, song, rõ ràng đã xuất hiện một xu hướng mới có triển vọng góp phần cho sự đa dạng, đa thanh, đa sắc màu, cá thể hóa của sự sáng tạo. Khát vọng khám phá chiều sâu của hiện thực và con người “hiện thực” và bộc lộ chính mình từ tác động của đời sống là những dấu hiệu nổi bật của văn học những năm gần đây. Chính vì thế, con đường sáng tạo là không giới hạn, nhà văn không bao giờ thỏa mãn với cái mình đã viết ra vì thế giới bên ngoài con người và thế giới bên trong con người là vô thuỷ, vô chung…
*
Có những đặc trưng mới trong việc thể hiện, khám phá, “nghiền ngẫm” hai thế giới trên trong văn học hôm nay, so với văn học thời chiến tranh và thời bao cấp. Văn học giai đoạn trước nghiêng hẳn theo hướng cổ vũ, vẫy gọi con người vươn lên cái cao cả, cái anh hùng, văn học hôm nay luôn có khát vọng “can thiệp trực tiếp” vào các vấn đề đang đặt ra trong cuộc đời và số phận con người. Văn học thời trước chủ yếu nghiêng hẳn vào miêu tả xu hướng chính yếu, chủ đạo của cuộc sống, văn học hôm nay luôn nhìn cuộc đời trong tất cả tính phức tạp và sự vận động đa chiều của nó. Văn học thời trước chủ yếu là miêu tả, tái hiện hiện thực, văn học hôm nay tập trung phát hiện, lý giải, phân tích hiện thực. Văn học thời trước chú trọng nhiều hơn cái ta, cái chung, văn học hôm nay chú trọng khám phá cái cá thể, cái đơn nhất. Văn học thời trước là tiếng nói đại diện, văn học hôm nay là tiếng nói của chính chủ thể sáng tạo....
Một vài so sánh như vậy không có nghĩa là chỉ ra sự đối lập giữa hai giai đoạn văn học mà chỉ nhằm làm rõ hơn đặc trưng, sự vận động, phát triển của tư duy nghệ thuật và việc thực hiện chức năng của văn học theo những phương thức khác nhau, từ đó ta thấy rõ hơn bước tiến hợp quy luật của văn học theo tiến trình lịch sử. Cái khác trước đây không phải bao giờ cũng là cái đối lập, loại trừ nhau mà là sự vừa nối tiếp, kế thừa vừa là sự phủ định biện chứng để từng bước tạo ra cái mới, sự phát triển khi tiến trình đã chín muồi. Có một vài biểu hiện ngộ nhận về vấn đề này có thể trao đổi để cùng nhau đi tới cái nhìn toàn diện hơn.
…
Lại cũng có khuynh hướng cho rằng, văn học chỉ quan tâm đến số phận con người, đến việc bảo vệ hạnh phúc của con người mà vì thế không liên quan đến chính trị. Đúng là có một thời kỳ chúng ta rơi vào quan điểm ít nhiều máy móc, nông cạn, khi đòi văn học, nghệ thuật phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ chính trị cụ thể, trước mắt, vì vậy, đã xuất hiện, ra đời những tác phẩm tuyên truyền thô thiển, chỉ có ý nghĩa nhất thời. Song, khi văn học hướng tới việc nỗ lực khám phá đa chiều con người hiện thực, số phận những cá thể thì không có nghĩa là sáng tác văn học đó tách rời hay độc lập, không liên quan gì đến chính trị… Tôi nhớ, khi có nhà phê bình hỏi Olga Tokarczuk - nữ nhà văn được giải Nobel văn học 2019 với tác phẩm Flights về tác phẩm của bà có liên quan đến chính trị không, bà đã trả lời: “Sách của tôi không “chính trị”. Tôi không nêu vấn đề chính trị. Chúng tôi chỉ mô tả đời sống, nhưng khi chúng ta quan sát đời người, chính trị lên lỏi vào khắp nơi”. (Viết và đọc. Chuyên đề mùa đông 2019 - Nxb Hội Nhà văn, trang 288)
*
Những điều trình bày trên đây đều xuất phát từ một cảm nhận rằng, văn học nước ta hiện nay đang tự vận động, tự vượt mình, đang biến đổi thầm lặng nhưng rất sâu sắc thể hiện rõ ràng trong tư duy sáng tạo của các nhà văn ở tất cả các thế hệ, đặc biệt ở thế hệ 7X, 8X, thậm chí trẻ hơn nữa 9X. Sự biến đổi, vận động đó chưa kết thúc, còn cần một thời gian không thể nôn nóng. Với đặc điểm đó, liệu đã có thể xây dựng hay xác định hệ giá trị của nó chưa? Tôi nghĩ rằng, có thể thực hiện công việc đó ở ba phương diện sau:
- Cần vượt qua các quy định trước đây có những nội dung đã không phù hợp với thực tiễn mới về tiêu chuẩn đánh giá tác phẩm, tác giả. Ví dụ, 4 tiêu chuẩn của nhà văn có tính Đảng và 4 tiêu chuẩn của tác phẩm có tính Đảng. Những quy định đó, nhìn ở góc độ chính trị tổng quát không sai nhưng không thể áp dụng để xác định hệ giá trị của văn học, nghệ thuật đang ở giai đoạn quá độ này (như trình bày ở trên).
- Cần xác định yêu cầu khách quan để xây dựng hệ giá trị văn học, nghệ thuật, nhận diện thực trạng biến đổi đang diễn ra của hệ giá trị và từ đó chỉ ra tình trạng thiếu chuẩn mực, thậm chí loạn giá trị. Đây là các vấn đề có ý nghĩa cả lý luận và thực tiễn.
- Rõ ràng là Hai giá trị căn cốt nhất của văn học Việt Nam, dù nó đang biến đổi và vận động, vẫn giữ vai trò tạo nên cả nền văn học này, một là, năng lực đồng hành để khám phá sự thật đời sống, số phận con người và dân tộc và hai là, phẩm chất nhân văn trân trọng, bảo vệ con người và cuộc sống vì hạnh phúc con người. Dù nó có đổi thay hệ hình tư duy như thế nào, dù nó có tìm tòi cách thể hiện mới ra sao thì cái đích cuối cùng, cái tạo ra giá trị của nền văn hóa này vẫn phải đạt được hai giá trị căn cốt đó.
Nguồn Văn nghệ số 13/2021