Diễn đàn lý luận

Đường lối văn học Việt Nam sau gần 40 năm đổi mới: Từ cởi trói tư duy đến phát triển và hội nhập

Ngô Viết Hoàn
Lý luận phê bình 07:00 | 14/06/2025
Baovannghe.vn - Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới (1986-2025), văn học Việt Nam đã trải qua những biến đổi sâu sắc cả về tư duy nghệ thuật lẫn phương thức sáng tác.
aa

Trong tiến trình đó, chính sách văn hóa, văn nghệ của Đảng đóng vai trò định hướng trọng yếu, tạo khuôn khổ cho sự phát triển của nền văn học mới. Bài viết này sẽ khảo cứu một cách có hệ thống quá trình gần 40 năm ấy, làm rõ mối quan hệ giữa chính sách văn nghệ của Đảng và sự phát triển của văn học Việt Nam, thông qua việc phân tích các văn kiện chủ chốt cũng như những hiện tượng văn học nổi bật trong thời kỳ Đổi mới.

1. Chính sách văn nghệ của Đảng qua các giai đoạn Đổi mới (1987-2025)

Sau Đại hội VI (1986), Đảng Cộng sản Việt Nam nhanh chóng ban hành những chủ trương mới trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật. Nghị quyết 05-NQ/TW năm 1987 của Bộ Chính trị được coi là văn kiện mở đầu cho công cuộc “cởi trói” văn nghệ thời kỳ mới. Cùng với Nghị quyết 05, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách pháp lý tạo hành lang thông thoáng hơn cho hoạt động xuất bản, báo chí. Kết luận số 20-NQ/TW của Bộ Chính trị (1989) lần đầu đặt vấn đề xây dựng Luật Báo chí, Luật Xuất bản và các luật về văn hóa nghệ thuật nhằm thay thế những văn bản lỗi thời. Hệ quả là sự ra đời của Luật Báo chí 1989, Luật Xuất bản 1993 và các quy định pháp luật mới về quyền tác giả, điện ảnh... đã thiết lập khung pháp lý tương đối cởi mở, bảo đảm cho hoạt động văn nghệ được diễn ra “tự do trong khuôn khổ pháp luật”​.

Bước sang thập niên 1990, quan điểm của Đảng về quản lý văn nghệ có sự điều chỉnh nhằm cân bằng giữa tự do sáng tạo và định hướng tư tưởng. Nghị quyết số 04-NQ/HNTW của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) “Về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt” ngày 14 tháng 1 năm 1993, đặt trọng tâm vào việc xây dựng nền văn nghệ cách mạng vững mạnh, chống các khuynh hướng lệch lạc. Nghị quyết này yêu cầu văn nghệ sĩ phát huy dân chủ nhưng “không được lợi dụng dân chủ” để truyền bá tư tưởng sai trái; đồng thời đề cao trách nhiệm của văn học nghệ thuật trong bồi dưỡng tư tưởng, đạo đức cho nhân dân.

Đường lối văn học Việt Nam sau gần 40 năm đổi mới: Từ cởi trói tư duy đến phát triển và hội nhập
Tổng Bí thư Tô Lâm và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước gặp mặt đại biểu văn nghệ sĩ, tháng 12/2024. Ảnh: Hoàng Hoàng

Tiếp đó, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (7/1998) về xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc đã đánh dấu một mốc quan trọng trong tư duy chính sách văn hóa của Đảng thời kỳ Đổi mới. Nghị quyết Trung ương 5 xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển, từ đó đề ra chiến lược lâu dài cho văn hóa văn nghệ. Đặc biệt, nghị quyết này mở ra hướng xã hội hóa các hoạt động văn hóa: khuyến khích các thành phần kinh tế, kể cả tư nhân, tham gia phát triển sự nghiệp văn học nghệ thuật​. Song song với việc khuyến khích xã hội hóa, Đảng cũng tăng cường công tác tư tưởng và quản lý để kịp thời uốn nắn những biểu hiện lệch hướng trong sáng tác. Nhìn chung, thập niên 1990 là thời kỳ Đảng tạo dựng khung khổ pháp lý và tư tưởng để văn nghệ phát triển lành mạnh: vừa tiếp tục phát huy dân chủ, đổi mới thi pháp, vừa siết lại kỷ cương nhằm ngăn chặn khuynh hướng xa rời tôn chỉ cách mạng.

Những năm đầu thế kỷ 21, Đảng tiếp tục quan tâm lãnh đạo lĩnh vực văn nghệ bằng những định hướng ở tầm vĩ mô. Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (16/6/2008) về “tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới” được ban hành, tổng kết thành tựu sau hơn 20 năm Đổi mới và đề ra nhiệm vụ mới cho văn học nghệ thuật. Nghị quyết 23 khẳng định toàn hệ thống chính trị luôn trân trọng, bảo vệ những đóng góp của văn nghệ sĩ cho công cuộc phát triển đất nước. Đây là một thông điệp mang tính động viên giới cầm bút, rằng Đảng và Nhà nước lắng nghe, chia sẻ nguyện vọng chính đáng, tháo gỡ khó khăn để họ yên tâm sáng tác​. Bên cạnh đó, nghị quyết cũng nhấn mạnh nguyên tắc: tự do sáng tạo luôn đi liền với trách nhiệm công dân. Mọi quyền tự do đều có giới hạn; người nghệ sĩ dù tài năng đến đâu trước hết cũng là một công dân, không thể nhân danh sáng tạo mà coi nhẹ nghĩa vụ đối với Tổ quốc và nhân dân​.

Thập niên 2010-2020, đất nước bước vào kỷ nguyên công nghệ số và hội nhập sâu rộng. Văn hóa nói chung và văn học nói riêng đứng trước những biến đổi chưa từng có về phương thức sáng tạo, truyền bá và tiếp nhận. Nhận thức rõ điều này, Đảng tiếp tục ban hành các văn kiện định hướng ở tầm chiến lược. Nghị quyết 33-NQ/TW Hội nghị Trung ương 9 khóa XI (6/2014) về “xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững” đã đề ra tầm nhìn dài hạn: phát triển văn hóa phải gắn liền với xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp. Văn học nghệ thuật cần góp phần bồi đắp hệ giá trị Việt Nam mới trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập. Bên cạnh việc nhấn mạnh yếu tố tiên tiến và đậm đà bản sắc, Nghị quyết 33 cũng đề cập đến yêu cầu chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tăng cường quảng bá văn học Việt Nam ra thế giới, đồng thời tiếp thu tinh hoa nhân loại một cách chọn lọc. Đây chính là kim chỉ nam để văn học Việt Nam vừa mở cửa, vừa giữ vững bản sắc dân tộc.

Đặc biệt, giai đoạn cuối 2010 và đầu 2020, Đảng đề cao nhiệm vụ “chấn hưng văn hóa” trước nguy cơ mai một các giá trị truyền thống và sự xâm lấn của văn hóa ngoại lai. Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng thẳng thắn chỉ ra: văn hóa chưa được quan tâm tương xứng, có hiện tượng chạy theo giải trí đơn thuần, một số mặt đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng​. Do đó, Đảng xác định phải tăng cường vai trò lãnh đạo của mình đối với văn nghệ, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh dựa trên nền tảng văn hóa vững chắc​. Trong tinh thần đó, những năm 2021-2022, nhiều chỉ thị được ban hành nhằm tiếp tục Đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động văn hóa, văn nghệ trong tình hình mới ví như Chỉ thị số 42-CT/TW, ngày 24/3/2015 của Ban Bí thư về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa cho thế hệ trẻ giai đoạn 2015-2030 hay Quyết định số 558/QĐ-TTg ngày 08/4/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật, báo chí ở Trung ương và các hội văn học nghệ thuật địa phương...

Những chỉ đạo quyết liệt nêu trên cho thấy Đảng đang quyết tâm chấn chỉnh và nâng tầm nền văn học nghệ thuật trong bối cảnh mới. Từ “cởi trói” đến “chấn hưng” hôm nay là một hành trình dài phản ánh nỗ lực liên tục của Đảng trong việc giữ cho văn học phát triển đúng hướng, phát huy tốt nhất vai trò của nó đối với xã hội.

2. Những xu hướng và thành tựu nổi bật của văn học Việt Nam thời kỳ Đổi mới

Chính sách văn nghệ của Đảng vừa tạo điều kiện, vừa định hướng cho sự hình thành các xu hướng sáng tác và những biến đổi to lớn trong diện mạo văn học sau Đổi mới. Dưới đây là các hiện tượng văn học tiêu biểu đã định hình nền văn học Việt Nam suốt 40 năm qua.

Văn học “phản tỉnh”: Nhìn thẳng vào sự thật và những trăn trở hậu chiến

Một trong những dòng sáng tác nổi bật nhất ngay sau Đổi mới là văn học phản tỉnh. Được khơi nguồn bởi chủ trương “nhìn thẳng vào sự thật” cuối thập niên 1980, dòng văn học này đã mạnh dạn giải thiêng nhiều huyền thoại, đặt ra những câu hỏi nhức nhối về chiến tranh và xã hội hậu chiến. Rất nhiều tác phẩm xuất sắc ra đời trong giai đoạn 1987-1995, tiêu biểu có thể kể đến Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp... Dòng văn học phản tỉnh có ý nghĩa to lớn trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại. Lần đầu tiên, những phương diện khác của chiến tranh và cách mạng được phản ánh trung thực đến vậy, giúp công chúng hiểu sâu hơn về cái giá của hòa bình cũng như những nghịch lý của đời sống hậu chiến. Văn học phản tỉnh đã góp phần hàn gắn vết thương dân tộc bằng sự thật và lòng nhân ái, đồng thời làm giàu ngôn ngữ biểu đạt của văn chương Việt Nam bằng những tìm tòi nghệ thuật mới (kết cấu dòng ý thức, giọng điệu huyền ảo, biểu tượng đa nghĩa...). Đây chính là thành tựu nổi bật đầu tiên của văn học thời Đổi mới, gắn liền với tinh thần dân chủ hóa mà chính sách văn nghệ của Đảng khởi xướng.

Văn học về đề tài LGBT+: Từ cấm kị đến tiếng nói đa dạng

Trong khoảng 20 năm trở lại đây, văn học LGBT+ đã dần hiện diện như một mảng đề tài mới, phản ánh sự thay đổi trong quan niệm về giới và quyền con người ở Việt Nam. Tác phẩm mở đường cho dòng văn học này phải kể đến Một thế giới không có đàn bà (1990) của Bùi Anh Tấn. Những năm 2000, chủ đề LGBT+ tiếp tục được khai thác bởi một số nhà văn trẻ, tuy chưa thực sự phổ biến. Có thể kể đến truyện dài Bóng (2002) của Thái Xuân Trường, tiểu thuyết Song Song (2005) của Vũ Đình Giang... Dần dần, nhân vật thuộc cộng đồng LGBT+ xuất hiện tự nhiên hơn trong tiểu thuyết, truyện ngắn đương đại như một phần của bức tranh đời sống đa dạng.

Sự hiện diện của văn học LGBT+ cho thấy văn học Việt Nam sau Đổi mới đã đồng hành cùng những chuyển biến xã hội, tôn trọng tính đa dạng của trải nghiệm con người. Dù chưa có tác phẩm nào thực sự xuất sắc mang tầm tư tưởng lớn về đề tài này, nhưng những tiếng nói mới đã góp phần phá vỡ định kiến, tạo sự thấu hiểu giữa các nhóm xã hội. Đây là một thành tựu tiến bộ về mặt ý thức xã hội, phản ánh sự mở rộng biên độ tự do trong sáng tác dưới tác động của chính sách đổi mới tư tưởng và hội nhập văn hóa.

Xu hướng hội nhập quốc tế và đối thoại văn hóa trong văn học

Sau Đổi mới, văn học Việt Nam ngày càng hội nhập sâu vào dòng chảy văn học thế giới. Quá trình hội nhập này thể hiện ở nhiều bình diện.

Về dịch thuật và quảng bá, chưa bao giờ văn học Việt Nam lại có nhiều tác phẩm được chuyển ngữ sang các thứ tiếng như hiện nay. Nỗi buồn chiến tranh đã được dịch ra hơn 14 ngôn ngữ​, Tuổi thơ dữ dội (Phùng Quán), Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ (Nguyễn Nhật Ánh) được dịch sang tiếng Anh, Nhật; thơ đương đại Việt Nam được tuyển dịch và xuất bản ở châu Âu... Một số giải thưởng văn học khu vực và quốc tế đã vinh danh nhà văn Việt: Bảo Ninh nhận giải thưởng ở Anh năm 1994, Nguyễn Nhật Ánh nhận giải ASEAN Literature Award 2010 cho tác phẩm thiếu nhi, Nguyễn Ngọc Tư nhận giải Văn học châu Á năm 2008… Điều này cho thấy sức ảnh hưởng của văn học Việt Nam đang vươn ra bên ngoài, được bạn bè quốc tế ghi nhận.

Ngược lại, văn học thế giới cũng tràn ngập vào Việt Nam trong 40 năm qua, đem đến nguồn cảm hứng và ảnh hưởng mạnh mẽ cho các cây bút nội địa. Từ cuối 1980, hàng loạt tác phẩm kinh điển và hiện đại của thế giới phương Tây được dịch ồ ạt. Hội nhập còn thể hiện qua việc văn học Việt Nam chủ động tham gia các diễn đàn, giải thưởng quốc tế. Từ năm 2000, Việt Nam đã nhiều lần cử đại diện dự Hội nghị quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latinh, Hội chợ Sách Frankfurt, các festival thơ quốc tế... Năm 2015, lần đầu tiên Việt Nam tổ chức Liên hoan thơ châu Á - Thái Bình Dương tại Quảng Ninh, quy tụ hàng trăm nhà thơ từ 40 quốc gia.

Tuy vậy, quá trình hội nhập cũng đặt ra những thách thức không nhỏ. Văn học Việt Nam phải cạnh tranh với dòng sách ngoại nhập ngay trên sân nhà, đòi hỏi không ngừng nâng cao chất lượng để thu hút độc giả. Nhiều nhà phê bình thẳng thắn chỉ ra văn học ta vẫn thiếu vắng các đỉnh cao tương xứng tầm thời đại, chưa tạo được tác phẩm mang dấu ấn phổ quát có thể gây tiếng vang lớn toàn cầu​. Việc quảng bá ra nước ngoài còn thiếu tính chiến lược. Dẫu vậy, không thể phủ nhận rằng hội nhập quốc tế đã đem lại luồng sinh khí mới cho văn học Việt Nam, giúp văn học ta đổi mới tư duy nghệ thuật và từng bước tiệm cận trình độ thế giới. Đây chính là trái ngọt từ chính sách mở cửa văn hóa hợp lý mà Đảng đề ra suốt 40 năm qua.

Thương mại hóa hoạt động văn học và thách thức cân bằng giá trị

Công cuộc đổi mới về kinh tế kéo theo sự chuyển biến căn bản trong đời sống xuất bản và sáng tác văn học. Từ chỗ hoạt động trong cơ chế bao cấp, văn học phải thích nghi với cơ chế thị trường, nghĩa là chịu sự chi phối mạnh mẽ của yếu tố thương mại, thị hiếu khách hàng. Thương mại hóa vừa là cơ hội để văn học mở rộng đối tượng độc giả, vừa đặt ra thách thức về việc giữ gìn giá trị nghệ thuật trước sức ép lợi nhuận.

Về mặt tích cực, thị trường sách phát triển sôi động đã nâng cao vị thế kinh tế của văn học trong xã hội. Nhiều nhà văn trở nên ăn khách, có sách bán chạy với số lượng hàng vạn bản - điều hiếm thấy trước kia. Chẳng hạn, Nguyễn Nhật Ánh nổi lên như hiện tượng best-seller với các tác phẩm Kính vạn hoa, Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ … liên tục tái bản hàng chục lần​. Bên cạnh đó, nhiều tác giả trẻ khác cũng bán được hàng vạn bản nhờ đánh trúng thị hiếu giới trẻ như Nguyễn Phong Việt, Anh Khang, Iris Cao... Sự xuất hiện của khái niệm “sách best-seller” và việc xếp hạng sách bán chạy theo tuần, theo tháng (do các công ty phát hành, báo chí công bố) cho thấy văn học giờ đây đã thực sự bước vào quỹ đạo thị trường.

Thương mại hóa cũng thúc đẩy ngành xuất bản mở rộng quy mô. Nhiều công ty sách tư nhân ra đời (Alpha Books, Nhã Nam…), tạo môi trường cạnh tranh năng động, đem lại nhiều đầu sách phong phú phục vụ bạn đọc. Thị trường sách mở rộng còn kéo theo sự phát triển của hoạt động phê bình báo chí, review sách trên mạng xã hội, các hội chợ sách, lễ hội sách thường niên… Văn chương không còn bó hẹp trong “tháp ngà” trí thức, mà đã trở thành một phần của thị trường giải trí và giáo dục đại chúng.

Tuy nhiên, mặt trái của thương mại hóa khiến không ít người lo ngại về chất lượng và định hướng của văn học. Do chạy theo lợi nhuận, một số nhà xuất bản, nhà sách ưu tiên in ấn các tác phẩm dễ dãi, chiều theo thị hiếu thấp: trào lưu tiểu thuyết ngôn tình công thức, truyện kinh dị giật gân, hồi ký “ngôi sao” kém giá trị… xuất hiện tràn lan. Nhiều “hiện tượng xuất bản” nổi lên nhanh chóng nhờ truyền thông nhưng giá trị văn chương mờ nhạt. Chẳng hạn, trào lưu tiểu thuyết diễm tình Trung Quốc dịch sang tiếng Việt bán rất chạy trong giới trẻ, lấn át cả sáng tác trong nước một thời gian. Một bộ phận tác giả cũng viết để đáp ứng thị trường, dẫn tới tình trạng “chạy theo thị hiếu tầm thường”.

Có thể nói, thương mại hóa là con dao hai lưỡi đối với văn học Việt Nam sau Đổi mới. Nó đem đến sức sống kinh tế cho văn học, giúp cải thiện đời sống nhiều nhà văn (ngày nay một số nhà văn sống được bằng nghề viết sách, nhuận bút cao hơn trước rất nhiều). Nhưng đồng thời, văn học cũng phải đối mặt nguy cơ bị “tầm thường hóa” nếu mất phương hướng nghệ thuật. Việc duy trì sự hài hòa giữa giá trị tư tưởng và giá trị thị trường chính là thách thức lớn mà cả nhà quản lý lẫn người cầm bút phải liên tục vượt qua trong dòng chảy đổi mới.

Văn học trong kỷ nguyên số: Thay đổi phương thức sáng tạo và tiếp cận

Bước vào thế kỷ 21, đặc biệt là từ thập niên 2010, sự bùng nổ của internet, mạng xã hội và công nghệ số đã tác động sâu sắc đến cách thức sản xuất và tiêu thụ văn học. Văn học Việt Nam nhanh chóng thích ứng với nền tảng số, hình thành khái niệm “văn chương mạng”, đồng thời chứng kiến sự lên ngôi của các hình thức mới như ebook, sách nói, blog văn học, fanfiction…

Trước hết, công nghệ số giúp dễ dàng hóa việc phổ biến tác phẩm văn học. Mạng xã hội trở thành “bệ phóng” đưa tác phẩm đến độc giả nhanh nhất, xóa nhòa khoảng cách địa lý. Thậm chí các diễn đàn văn chương online còn là nơi ươm mầm tài năng: không ít bạn trẻ thử sáng tác trên Facebook, Wattpad… và hình thành những cộng đồng độc giả riêng, trước khi tác phẩm của họ được các nhà sách chú ý. Có thể nói, quyền lực xuất bản không còn nằm độc quyền trong tay nhà xuất bản nhà nước, mà phân tán cho mỗi cá nhân có kỹ năng số. Điều này tạo ra tính dân chủ và đa dạng chưa từng có trong đời sống văn học.

Song hành với đó, định dạng sách điện tử (ebook) và sách nói phát triển nhanh, mang lại thuận tiện cho người đọc hiện đại. Quả thực, đọc sách đã khác xưa: nhiều người chuyển sang đọc trên điện thoại, máy tính bảng thay vì sách giấy. Nắm bắt xu hướng, các cơ quan văn hóa đã xây dựng thư viện số, tủ sách online; một số nhà xuất bản ra mắt nền tảng ebook riêng như ebook365 - nền tảng xuất bản điện tử quốc gia. Thị trường sách nói cũng bùng nổ với các ứng dụng như Fonos, Voiz FM, thu hút giới trẻ bận rộn. Theo thống kê, năm 2024 Việt Nam xuất bản 1.886 đầu sách nói và doanh thu lĩnh vực này tăng 200% so với năm trước​. Rõ ràng, công nghệ số đang thổi luồng gió mới giúp tác phẩm văn chương “sống” thêm một đời sống nữa dưới dạng âm thanh hay bit số, kéo dài tuổi thọ cũng như phạm vi phục vụ của văn học.

Tuy nhiên, kỷ nguyên số cũng đặt ra những vấn đề nan giải. Trước hết là nạn vi phạm bản quyền: tác phẩm văn học bị số hóa và phát tán trái phép tràn lan. Nhiều trang web, diễn đàn chia sẻ ebook lậu khiến nhà văn và nhà xuất bản thất thu, nản lòng. Bên cạnh đó, văn hóa đọc truyền thống đứng trước cạnh tranh quyết liệt từ các nội dung giải trí số khác (video, mạng xã hội). Giới trẻ dành nhiều thời gian lướt mạng hơn là đọc sách dài, dẫn đến nguy cơ đọc nông, đọc lướt. Chính vì vậy, dù tiện ích số nhiều nhưng bài toán làm sao duy trì đọc sâu, đọc có chất lượng vẫn là trăn trở.

Có thể nói, bốn thập kỷ Đổi mới đã ghi dấu chặng đường đầy thành tựu và cũng không ít khó khăn của văn học Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, văn học nước ta đã vượt qua giai đoạn khủng hoảng cuối thế kỷ 20 để bước sang một trang mới với sinh khí dồi dào. Trong suốt 40 năm qua, văn học Việt Nam không chỉ phát triển về nội dung, hình thức mà còn thể hiện rõ vai trò then chốt trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, góp phần gìn giữ hệ giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng.

Văn chương có khả năng để chúng ta nhìn thấy “chúng”, nhìn thấy “họ”, và tránh để lãng quên

Văn chương có khả năng để chúng ta nhìn thấy “chúng”, nhìn thấy “họ”, và tránh để lãng quên

Baovannghe.vn - Tác giả Giai Du đã giành giải Nhất Giải thưởng Văn học Kim Đồng lần thứ nhất (2023-2025) với tác phẩm Nên làm gì khi trời nổi gió. Văn nghệ đã có cuộc trò chuyện với tác giả ngay sau khi nhận giải.
Khai mạc Tuần phim Nga tại Việt Nam năm 2025

Khai mạc Tuần phim Nga tại Việt Nam năm 2025

Baovannghe.vn - Tối 27/6, Lễ Khai mạc Tuần Phim Nga tại Việt Nam năm 2025 đã diễn ra trang trọng tại Trung tâm Chiếu phim quốc gia, Hà Nội. Đây là sự kiện do Cục Điện ảnh (Bộ VHTTDL Việt Nam) phối hợp với Cơ quan Nội dung Nghe nhìn Liên bang Nga (ROSKINO) tổ chức từ ngày 26 – 28/6.
Liên hoan phim châu Á - Đà Nẵng: Tôn vinh điện ảnh Việt - Hàn, dày công ươm mầm tài năng trẻ

Liên hoan phim châu Á - Đà Nẵng: Tôn vinh điện ảnh Việt - Hàn, dày công ươm mầm tài năng trẻ

Baovannghe.vn - Sau hai mùa tổ chức thành công, Liên hoan phim (LHP) châu Á - Đà Nẵng (DANAFF) lần thứ 3 dự kiến diễn ra từ 29/6 - 5/7/2025.
BSR đồng hành cùng Quảng Trị xóa nhà tạm, nhà dột nát, chăm lo người có công và thân nhân liệt sĩ

BSR đồng hành cùng Quảng Trị xóa nhà tạm, nhà dột nát, chăm lo người có công và thân nhân liệt sĩ

Baovannghe.vn - Sáng 23/6, tại xã Lìa, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị, Ban Chỉ đạo xóa nhà tạm, nhà dột nát tỉnh Quảng Trị đã tổ chức Hội nghị tổng kết Chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát và hỗ trợ nhà ở cho các hộ gia đình có công với cách mạng, thân nhân liệt sĩ trên địa bàn tỉnh. Đây là chương trình mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, thể hiện tinh thần đoàn kết, nghĩa tình và trách nhiệm xã hội của cả hệ thống chính trị và cộng đồng doanh nghiệp, trong đó có Công ty cổ phần Lọc hóa dầu Bình Sơn (BSR).
Đề nghị công nhận Sổ vàng trường Nguyễn Ái Quốc là Bảo vật quốc gia

Đề nghị công nhận Sổ vàng trường Nguyễn Ái Quốc là Bảo vật quốc gia

Baovannghe.vn - Hội thảo khoa học: “Xác định nội dung, giá trị lịch sử, ý nghĩa lý luận của Sổ vàng Trường Nguyễn Ái Quốc” đã diễn ra tại Hà Nội với đa số tham luận nhất trí Hoàn thiện hồ sơ Đề nghị công nhận Sổ vàng trường Nguyễn Ái Quốc là Bảo vật quốc gia