Họ đã rất nỗ lực trong việc đổi mới tư duy thể loại. Dựa vào lý luận tự sự học hiện đại, bài viết của chúng tôi tìm hiểu về Kiểu người kể chuyện xưng “tôi” duy nhất trong truyện ngắn sau 1975 của ba nhà văn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng. Qua đó, thấy được vai trò tiên phong của những đại biểu tinh anh trong phong trào đổi mới văn học sau 1975.
Theo Từ điển thuật ngữ văn học, người kể chuyện (NKC) là “hình tượng ước lệ về người trần thuật trong tác phẩm văn học, chỉ xuất hiện khi nào câu chuyện được kể bởi một nhân vật cụ thể trong tác phẩm”. Như vậy, NKC là hình tượng nghệ thuật đặc biệt và tất yếu trong một tác phẩm tự sự. Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất còn gọi là người kể tường minh hay người kể lộ diện (câu chuyện được kể lại bởi một NKC hiện diện như một nhân vật trong truyện). Sử dụng hình thức tự sự ngôi thứ nhất (NT1) theo điểm nhìn đơn tuyến (ĐNĐT) trong các truyện ngắn sau 1975, Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng đã chọn một nhân vật xưng “tôi” duy nhất để kể chuyện. “Tôi” có thể không phải là nhân vật chính, nhưng điểm nhìn của anh ta luôn luôn là trung tâm định hướng. “Tôi” có thể không kể chuyện của mình, không trực tiếp “can dự vào câu chuyện, nhưng chuyện “tôi” kể ít nhiều liên quan tới bản thân “tôi”. Bởi lẽ, câu chuyện kể được lọc qua lăng kính ý thức của người kể. Đứng ở vị trí NKC, “tôi” không bị các nhân vật khác “nhìn” mà chỉ có các nhân vật khác bị “nhìn” theo quan điểm của “tôi”. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, “tôi” có thể còn là đối tượng của cái nhìn chính “tôi”.
Với khát khao tìm kiếm “con người bên trong con người”, Nguyễn Minh Châu không dừng lại ở việc trần thuật khách quan những sự việc, sự kiện, mà còn hóa thân vào nhân vật, trở thành một nhân vật “tôi” nào đó trong tác phẩm để quan sát và miêu tả, kể chuyện theo cách nhìn và quan điểm cá nhân. Với sự hóa thân này, nhà văn đã đi sâu vào thế giới nội tâm của nhân vật để phân tích và phát hiện vấn đề. Với cái “tôi” riêng tư, nhân vật được soi chiếu ở nhiều góc nhìn và nhờ đó NKC có thể tự do bình luận, bày tỏ quan điểm theo ý nghĩ chủ quan của mình. Qua những câu chuyện, dù kể chuyện của mình hay người khác, thì NKC vẫn ở vị trí “nhìn” các nhân vật khác để kể và bộc lộ quan điểm của mình.
Nguyễn Khải là nhà văn ưa sử dụng hình thức tự sự này hơn cả. Trong đó, hầu hết là kiểu nhân vật “tôi” chứng kiến rồi kể lại câu chuyện của người khác, thông qua sự chiêm nghiệm của mình. Ma Văn Kháng lại ít sử dụng hình thức tự sự này. Tuy nhiên, những truyện kể bởi NKC xưng “tôi” duy nhất (Trung du chiều mưa buồn, Người giúp việc, Miền an lạc vĩnh hằng, Suối mơ, Chị Thiên của tôi, Thầy Khiển) đều là những tác phẩm để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. “Tôi” không kể về mình mà “tôi” kể chuyện người khác. Nhân vật “tôi” (Người giúp việc), với tư cách là người trần thuật đã kể lại thật xúc động câu chuyện về bà cụ Mạ, người giúp việc cho vợ chồng nhà văn Hoằng. Người kể chuyện không phải là người duy nhất chứng kiến câu chuyện nhưng anh lại là người duy nhất kể lại. Bằng cách ấy, Ma Văn Kháng đã thể hiện thật xúc động sự đồng cảm, sẻ chia với nỗi tủi buồn của con người.
![]() |
Hình ảnh minh họa. Nguồn pinterest |
Trong số những truyện kể ở NT1 theo ĐNĐT của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng, chúng tôi thấy đa phần NKC mang một điểm nhìn duy nhất. Bên cạnh đó có hiện tượng một NKC mang hai điểm nhìn của chính “tôi” (hai điểm nhìn này đan xen nhau, chồng lên nhau). Bức tranh của Nguyễn Minh Châu kể chuyện của ông hoạ sĩ, nhưng câu chuyện ấy được soi rọi từ hai điểm nhìn của “tôi” ở vào hai thời điểm khác nhau: cái “tôi” của hiện tại nhìn nhận lại sự việc về bức chân dung của người lính, và cái “tôi” của tám năm về trước. Giữa hai điểm nhìn ấy là một khoảng cách của sự nhận thức. Cái “tôi” của quá khứ là cái “tôi” tự thể hiện mình, cái “tôi” của hiện tại là cái “tôi” tự sám hối. Từ cái “tôi” quá khứ đến cái “tôi” của hiện tại là cả một quá trình đấu tranh nội tâm gay gắt mà không ít lần cái “tôi” ngụy biện, thoái thác xuất hiện len lỏi trong dòng suy tư của nhân vật. Cuộc đấu tranh không khoan nhượng của “tôi” đã giúp người hoạ sĩ nhận chân giá trị thực của đời sống.
Nhận thức của con người là cả một quá trình trải nghiệm, bởi lẽ "con người không bao giờ trùng khít với chính mình”. Hình thức trần thuật bởi một NKC xưng “tôi” này đã phá vỡ nguyên tắc xây dựng nhân vật “đồng nhất một chiều” từng xuất hiện trong sáng tác của các nhà văn trước đó. Cảm hứng lãng mạn cách mạng khiến người viết xây dựng những nhân vật thật đẹp như: Huân (Mùa lạc - Nguyễn Khải); Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng - Nguyễn Minh Châu); Tnú, Mai Dít (Rừng xà nu - Nguyễn Trung Thành)... Giữa NKC và nhân vật có một khoảng cách tôn kính, ngưỡng mộ. Sau 1975, các cây bút đi vào những vấn đề thế sự. Con người thời hậu chiến là những người “đi từ trong rừng ra”, lạc lõng với nhịp sống đương thời (Người sót lại của rừng cười - Võ Thị Hảo; Mảnh vườn xưa hoang vắng, Mê lộ - Đỗ Chu); là những người đàn bà chịu nỗi đau mất chồng trong chiến tranh (Hai người đàn bà xóm trại - Nguyễn Quang Thiều); là con người với nỗi cô đơn, trống trải (Tướng về hưu - Nguyễn Huy Thiệp; Của để dành, Thành phố không mùa đông, Cát đợi - Nguyễn Thị Thu Huệ; Người đàn bà và những giấc mơ - Y Ban; Vu vơ ở lưng chừng trời - Đỗ Phấn) hay con người với những góc khuất tâm linh (Bến trần gian - Lưu Sơn Minh)... Thế nên, hình thức tự sự này đã đáp ứng được nhu cầu khám phá những uẩn khúc của muôn mặt đời thường.
Theo khảo sát, chúng tôi nhận thấy, NKC đa phần là trí thức. Họ có thể là nhà văn, nhà thơ, nhà báo, hoạ sĩ... Nhiều tình tiết trong tác phẩm gắn với những trải nghiệm cá nhân của chủ thể sáng tạo nên bóng dáng tác giả in dấu ấn trong từng trang viết. Với Nguyễn Minh Châu, NKC của Bức tranh là người hoạ sĩ, Sắm vai là nhà soạn kịch, “có thể học đòi làm được đôi chút công việc văn chương”.. Với Nguyễn Khải, điều này còn được thể hiện rõ hơn. Trong 18 truyện ngắn tự sự NT1 theo ĐNĐT của Nguyễn Khải được những người trí thức mang đậm dấu ấn khảo sát, NKC xưng “tôi” hầu hết là những người trí thức mang đậm dấu ấn nhà văn... ở truyện ngắn Ma Văn Kháng, dấu ấn nghề nghiệp ở nhân vật xưng “tôi” không rõ rệt như Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Khải.
Có thể nói, những cái “tôi” ấy không đơn thuần chỉ là ngôi kể. Đó là cái “tôi” luôn suy ngẫm, độc thoại, tự ý thức dù viết về mình hay người khác thì vẫn chan chứa tâm tình. Điều đặc biệt, cái “tôi” ấy luôn luôn là cái “tôi” mang tính đối thoại: đối thoại với môi trường, đối thoại với hoàn cảnh xã hội, đối thoại với các nhân vật khác, đối thoại với độc giả hay đối thoại với chính mình.
Mang đặc điểm của truyện ngắn Việt Nam sau 1975, nhìn chung các tác phẩm kể theo NT1 của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng không lấy tình tiết, sự kiện làm chính (khác với nguyên tắc sáng tác của truyện ngắn truyền thống) mà chú tâm thể hiện những “bí ẩn” của thế giới nội tâm nhân vật. Theo suốt các thiên truyện là sự hồi tưởng quá khứ của nhân vật “tôi”. Truyện thường có kết cấu: mở ra là hiện tại - hồi tưởng quá khứ - kết thúc là hiện tại với những suy tưởng, chiêm nghiệm. Thế giới nghệ thuật là thế giới “một thời đã xa” nay chỉ còn “vang bóng”. Nó có thể rất trong trẻo, ngọt ngào, nên thơ (Đổi đời, Thầy Minh, Cái thời lãng mạn - Nguyễn Khải; Thầy Khiển - Ma Văn Kháng...); nó có thể “dữ dội” và cay cực (Mẹ và bà ngoại, Đã từng có những ngày vui - Nguyễn Khải); nó có thể là một ấn tượng sâu đậm không thể phai mờ (Dấu vết nghề nghiệp - Nguyễn Minh Châu; Người ngu, Một chiều mùa đông - Nguyễn Khải, Trung du chiều mưa buồn - Ma Văn Kháng ...); nó có thể là những ám ảnh, day dứt khôn nguôi (Bức tranh - Nguyễn Minh Châu, Phía khuất mặt người - Nguyễn Khải, Chị Thiên của tôi - Ma Văn Kháng)... Tất cả được lọc qua lăng kính kí ức của một NKC đầy ưu tư và chiêm nghiệm.
Điều các tác phẩm hướng tới không chỉ là những sự kiện, sự việc, ngoại cảnh “tôi” chứng kiến mà chính là vấn đề “đôi mắt”, là cái nhìn, suy nghĩ của “tôi” đối với sự kiện, sự việc và ngoại cảnh ấy, là sự miêu tả “cái ý thức của tôi”. Có lẽ, đây là tiền đề cho lối tự sự trong truyện ngắn của những cây bút thuộc thế hệ sau. Họ không hướng vào khai triển hệ thống sự kiện với cốt truyện, mà họ quan tâm đến việc kể câu chuyện ấy như thế nào: Hoa muộn (Phan Thị Vàng Anh); Cam ngọt (Phạm Sông Hồng); Khách thương hồ (Hào Vũ); Đường Tăng (Trương Quốc Dũng); Sau những mùa trăng (Đỗ Bích Thuý); Cái nhìn khắc khoải, Dòng nhớ, Chiều vắng, Hiu hiu gió bấc (Nguyễn Ngọc Tư)... Có thể nói, truyện kể ở NT1 với NKC xưng “tôi” duy nhất thường mang màu sắc “phản tỉnh”. Trong nhiều tác phẩm, người đọc có cảm giác không chỉ lắng nghe “tôi” kể chuyện, mà còn đồng cảm và cùng thức tỉnh với tâm trạng, nỗi niềm của “tôi”. Nhịp điệu kể hòa với điệu tâm hồn, lúc trầm lắng, suy tư, lúc nao nao, thổn thức... Vì vậy, chiếm ưu thế trong các truyện ngắn này là lời kể với sự xuất hiện thường trực những tập hợp từ như: “một hôm”, “đêm ấy”, “từ đó”, “ngày hôm đó”, “sáng hôm sau”, “khi trở lại “mỗi ngày”... Lối kể này cho thấy tính chất khách quan của câu chuyện. Nhưng khi truyện được tiến hành kể từ điểm nhìn của NKC xưng “tôi”, tức là được trần thuật theo phương thức tự sự chủ quan, thì người kể có điều kiện tự do bộc lộ cá nhân, biểu đạt tình cảm chủ quan. Bởi lẽ, cái “tôi” được bộc lộ tự do, cho nên nó một mặt là cái “tôi” khách quan, mặt khác cũng là cái “tôi” chủ quan, cái “tôi” nội tâm, cái “tôi” tâm lý... Vì thế, sức hấp dẫn của những thiên truyện này chính là ở những chiêm nghiệm, suy tư, triết lí.
Hình thức tự sự NT1 theo ĐNĐT thể hiện sự cách tân của truyện ngắn Việt Nam đương đại. Người kể chuyện có thể là nhân vật chính trong truyện như: Người vãi linh hồn của Vũ Bão, Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư, Như gốc gội xù xì của Hà Thị Cẩm Anh, Hoàng hôn màu cỏ úa, Người đi tìm giấc mơ của Nguyễn Thị Thu Huệ... Người kể chuyện có thể là người chứng kiến câu chuyện như Cún của Nguyễn Huy Thiệp, Đùa của tạo hoá của Phạm Hoa... Nhiều trường hợp, người đọc có cảm giác rằng NKC đồng nhất với tác giả (dù không hoàn toàn trùng khít) như những truyện ngắn về miền núi của Đỗ Bích Thuý. Sau 1975, nhiều cây bút sử dụng hình thức tự sự với NKC xưng “tôi” duy nhất, đặc biệt là những cây bút mới như Phan Thị Vàng Anh, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Phạm Thị Hoài... Việc lựa chọn ngôi kể như vậy là dấu hiệu của sự đổi mới. Trước đây, người ta chỉ bắt gặp NKC xưng “tôi” trong những tác phẩm hồi kí, tự truyện thì đến nay hình thức tự sự này đã được sử dụng nhiều trong truyện ngắn - một thể loại hư cấu. Vì thế, nhân vật được nhìn ở chiều sâu nội tâm và tư tưởng, ở những cảnh ngộ éo le, trắc trở. Trên nền tảng ấy, những cây bút mới đã sáng tạo, cách tân với những truyện ngắn có sự hoà phối nhiều thể loại khác nhau: truyện ngắn được viết dưới hình thức nhật kí (Mười ngày - Phan Thị Vàng Anh; Năm ngày - Phạm Thị Hoài); thư từ (Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Người đàn bà có ma lực - Y Ban); pha trộn yếu tố tuỳ bút, bút kí (Phù phiếm truyện - Phan Việt); yếu tố trữ tình (Cải ơi, Dòng nhớ, Hiu hiu gió bấc - Nguyễn Ngọc Tư, Chảy đi sông ơi, Tâm hồn mẹ, Chuyện tình kể trong đêm mưa Nguyễn Huy Thiệp)... Với sự cách tân này, những thành tố quan trọng của truyện ngắn truyền thống dường như không còn quan trọng.
Hình thức trần thuật NT1 theo ĐNĐT đã tạo điều kiện cho nhà văn khai thác nội tâm và những trải nghiệm cá nhân một cách sâu sắc. Điều này xuất phát từ nhu cầu nhận thức lại trong văn học thời kì đổi mới. Nhìn chung, NKC trong tác phẩm tự sự NT1 theo ĐNĐT đều tạo được niềm tin cho độc giả đối với những gì anh ta miêu tả, bình luận. Nói cách khác, quy phạm tư tưởng của NKC thống nhất với quy phạm tư tưởng của tác giả. Ấn tượng về những trang viết ấy chính là tấm lòng tha thiết, nhân hậu, sâu nặng tình đời, tình người. Nguyễn Minh Châu thâm trầm, da diết; Nguyễn Khải sắc sảo, giàu suy tư, triết luận; Ma Văn Kháng thấm đượm ân tình. Những truyện ngắn sáng tác sau 1975 được kể bởi người kể chuyện xưng “tôi” duy nhất của họ đã góp phần không nhỏ tạo nên diện mạo văn học Việt Nam trong thời kì mới. Họ xứng đáng là đại diện cho thế hệ “mở đường” của nền văn học Việt Nam sau 1975 với vai trò tạo “nền tảng” cho những cách tân, đổi mới của các cây bút thế hệ sau.