Đối với những tay vẽ rẽ ngang tại Hà Nội, có một câu nói đùa khi biết đến nhau là, “Bạn cũng từng học vẽ ở Hồng Xiêm à?” Một câu chuyện nhỏ như vậy để biết, trong vòng tròn quan hệ nhỏ bé của những người yêu thích nghệ thuật nói chung và hội họa nói riêng ở Hà Nội, Hoàng Huệ Phương - cô giáo của Lớp học Hồng Xiêm là cái tên không còn xa lạ.
Trên căn gác nhỏ ở phố Lý Nam Đế, cũng là phòng học của Hồng Xiêm, đồng thời là một xưởng tranh nhỏ, Huệ Phương lặn ngụp trong màu vẽ, trong ánh sáng và những thực hành hành nghệ thuật, trong dòng sông của lòng riêng. Vì với Phương, “vẽ cho tôi cơ hội rất danh chính ngôn thuận để soi chiếu bản thân.”
Sau một thời gian miệt mài với sơn dầu, màu nước, sơn mài, nét chì, màu mực, triển lãm đầu tay của Huệ Phương - Trời buồn gió cao đã chính thức ra mắt. Nó cũng đánh dấu một chương mới trong câu chuyện nghệ thuật của chị vừa khép lại, đồng thời mở ra những đối thoại mới trong tương lai.
Chúc mừng bạn với triển lãm đầu tay “Trời buồn gió cao”, cảm xúc của bạn về triển lãm lần này là gì?
Tôi cảm thấy hồi hộp vì đây là lần đầu để thật nhiều người bước vào thế giới riêng của mình, giống như cho mọi người đọc nhật ký vậy. Tôi cũng có nhiều tiếc nuối nữa, vì triển lãm này là lời tạm biệt quê hương một thời gian dài, chưa biết là bao lâu. Nếu không có cuộc hành trình mới này, chắc tôi còn lâu lắm mới nghĩ đến việc “mở cửa” như vậy. Dù sao, tôi cảm thấy đây là một lời tạm biệt rất có ý nghĩa, vì nó cho tôi cơ hội để làm việc với những người đồng hành tuyệt vời nhất, và nhận ra rằng họ quan trọng với mình như thế nào.
|
Brene Brown nói rằng “nghệ thuật có khả năng biến nỗi buồn trở nên đẹp đẽ, biến nỗi cô đơn thành một trải nghiệm được chia sẻ và biến nỗi tuyệt vọng thành niềm hy vọng”, vậy với bạn thì sao, nghệ thuật hay sâu xa hơn là hội họa mang đến cho những cách biểu đạt mới nào?
Với những ai từng quen biết, đều sẽ nhận ra rằng cuộc sống của tôi là một kiểu điển hình của tuýp người siêu hướng ngoại. Tôi hay cười và hoạt bát. Xưởng vẽ của tôi luôn đầy ắp bạn bè ra vào, lúc nào cũng rộn ràng. Tôi thích đem lại niềm vui và sự huyên náo cho mọi người. Nhưng nếu cứ bóc mãi đến tận cùng, thực chất lại có một đối cực: tôi yêu cả sự cô đơn, vốn được biết đến như một nỗi đau khổ. Tôi có nhu cầu được buồn. Tôi thích khóc. Tôi hay dành buổi tối ngồi một mình để viết và vẽ, trong lúc gặm nhấm sự cô đơn và sầu muộn. Tôi có nhiều “nỗi buồn dự bị”, chỉ chờ được tràn ra vào những lúc đó.
Tôi nghĩ rằng nỗi buồn thì luôn đẹp đẽ, và khi người ta có thể kêu lên được rằng mình cô đơn thì lúc đó đã có sự chia sẻ. Chỉ là người ta có ý thức được việc ấy hay không thôi. Nghệ thuật cho tôi một cơ hội tuyệt vời để soi xét điều đó một cách sâu sắc - tức là ta có thời gian để suy nghĩ và chiêm nghiệm. Ai cũng buồn, nhưng để nghĩ về việc buồn một cách thật kỹ thì phải có điều kiện kia. Giống như ai cũng ăn, nhưng ăn mà biết ngon biết dở thì phải dành tâm trí suy ngẫm.
Bất kỳ họa sĩ nào cũng hiểu rằng ánh sáng chỉ hiện lên rạng rỡ nhất khi được đặt cạnh bóng tối sâu thẳm. Cũng theo cách đó, niềm vui chỉ đủ cao khi nỗi buồn đủ sâu. Nghệ thuật thật kì diệu vì đã cho tôi trải nghiệm những đối cực đó.
Phần lớn những tác phẩm trong triển lãm lần này của bạn được thực hiện bằng chất liệu sơn dầu, có câu chuyện gì đặc biệt đằng sau chất liệu này?
Tôi thích sơn dầu vì tôi là người nhiệt tình, còn hơi bốc đồng nữa. Nó là chất liệu rất cơ động, không hoãn lại cái sự sung sướng của bất kỳ ai, không bắt ai phải chờ đợi gì cả. Mà cái hào hứng của người sôi nổi thì chóng tắt lắm, như một cơn mưa rào, cần phải dùng một chất liệu thật gọn gàng, thật sẵn có thì mới nuôi dưỡng được. Tôi chỉ vẽ được một lần trong sự cao trào đó thôi, không bao giờ trở lại được lần hai. Lúc học ở trường, các thầy bắt làm phác thảo xong mới vẽ, tôi toàn vẽ dở hơn phác thảo thôi, buồn cười lắm, nhưng nghĩ lại cũng thấy hay. Thầy nào mà hiểu tính mình, cho vẽ tranh khác hẳn phác thảo là bài đó hay liền.
Ngoài ra, sơn dầu thơm lắm. Mình thích mùi dầu thông, nó thực sự có mùi của một khu rừng. Dầu thông độc, nhưng mà thơm, tê quá, mê quá. Tôi cũng yêu cả sự quánh dẻo của sơn dầu. Nó cứ sinh động như bột bánh mì ấy, lúc nọ lúc kia. Tôi hay vẽ cả bằng đầu ngón tay để được sờ vào nó. Giờ tay tôi chẳng còn rõ vân nữa rồi.
Dù sao, phải mất một thời gian dài để tôi chinh phục được sơn dầu. Sơn dầu khó để vẽ cho đẹp. Nó là thứ làm mọi nhược điểm trở nên rất lộ liễu, không bao giờ có chuyện ăn may. Trong quá khứ, đã nhiều lần tôi ghét nó, như giận người yêu vậy.
Có thể thấy chất liệu của bạn rất đa dạng, bạn chọn lựa chất liệu sáng tác phù hợp như thế nào?
Bàn về chất liệu vẽ, người ta thường chỉ nghĩ đến vật liệu, như sơn dầu, sơn mài, lụa, màu nước, vân vân. Nhưng với tôi, vật liệu nào sẵn và tiện lợi thì tôi dùng thôi. Ví dụ, việc bày biện vẽ sơn mài là rất cầu kỳ, tôi phải rủ bạn lên vẽ để cùng nhau dọn dẹp xưởng cho nhanh, như thế mới là tiện. Giá mà có nhiều thời gian bên các bạn ấy hơn, tôi đã vẽ sơn mài nhiều hơn rồi. Chung quy lại, vẽ cái gì cũng được, đồ tốt là đồ trong tầm với của tay mình.
Vì vậy, để nói rằng mối quan tâm chất liệu của tôi nằm ở đâu, thì tôi quan tâm đến cấu tượng hơn là bản thân vật liệu. Vì tôi không vẽ một ý nghĩa, mà thường vẽ một cảm giác. Cảm giác có thể được mô tả đại khái bằng các tính từ, ví dụ như “tan vỡ”, “trong sáng”, “lo âu”, “sôi nổi”, vân vân. Khi tôi muốn tái hiện một cảm giác, tôi sẽ chọn một cấu tượng phù hợp, cụ thể là chọn vẽ mỏng hay dày, nhiều mảng khối hay đường nét, dùng bút mềm hay cứng, lực mạnh hay nhẹ.
Khi thử nghiệm đa dạng và đọc được trong những chất liệu đó nhiều lớp lang, làm thế nào để bạn biết được đâu là điểm dừng phù hợp trong quá trình sáng tác?
Tôi sẽ dừng khi đạt đến điểm 7/10. Nếu bản thân còn rất hăng say với bức tranh, tôi sẽ vẽ đến điểm 8. Tôi không bao giờ cố lên điểm 9 hoặc 10/10, không phải vì không đủ lì lợm, mà vì tôi thấy điều đó là vô nghĩa. Điểm 7 là một vị trí tốt, tại đó ta đủ bao dung nhưng không dễ dãi. Ngoài ra, cần phải chừa chỗ cho những cuộc phiêu lưu sẽ xảy đến trong tương lai, đối với bức tranh và đối với bản thân mình.
Đâu là chủ đề và motif yêu thích nhất của bạn trong hội họa? Chúng có mang tính hiện đại không?
Triển lãm lần này với 6 chủ đề là 6 motif yêu thích nhất của tôi. Thực sự ban đầu tôi không có kế hoạch làm triển lãm, tức là tôi không có đề bài gì cả. Tôi vẽ tự do, thích gì vẽ nấy. Về sau mới thấy hóa ra chúng đều có mối liên kết gì đó.
Việc tìm được thứ tôi vẽ là rất khó. Một người mới bắt đầu thường có rất nhiều lầm tưởng và định kiến về bản thân. Tôi tưởng mình thích hình ảnh hoa sen, cho đến khi vẽ nó một, hai lần là thấy chán. Đâu phải hoa sen không đẹp, mà là vì nó chẳng liên quan gì đến tôi cả. Vậy một mạch nguồn cảm xúc dồi dào hẳn phải có gốc rễ ở sâu xa hơn bên trong tôi. Gốc rễ đó cho tôi biết mình là ai.
Vậy nên việc vẽ với tôi là việc giải mã bản thân. Nó giống như chơi game mà ta phải mở bản đồ. Luật chơi duy nhất là phải hết sức thành thật. Đầu tiên ta phải tìm ra các manh mối rất mơ hồ trong một biển thông tin hỗn loạn, sau đó, ta lần theo và kết nối lại những gì mình tìm được.
Tôi không chắc tranh của mình có hiện đại hay không nữa, vì từ “hiện đại” gây bối rối lắm. Mỗi sách lại giải nghĩa “hiện đại” một cách khác nhau. Chỉ biết rằng tranh của tôi không có màu sắc giáo lý gì cả. Tôi không cố gửi gắm bất kì tư tưởng nào đến ai hoặc cải tạo điều gì. Nếu có người nào cảm thấy rung động thì thật tốt, nhưng nó cũng có thể chỉ là câu chuyện vu vơ với bất kỳ ai.
Sau cùng, với “Trời buồn gió cao” bạn muốn gửi gắm và mong đợi những gì? Mục tiêu trong tương lai của bạn là gì?
Tôi hay đùa với bạn bè rằng tranh mình giống như một cuốn nhật kí được ghi chép bằng một phương pháp đặc biệt và tương đối có hệ thống, của một người nhập cư bình thường đến thủ đô. Vậy thì cứ để nó là một cuốn nhật ký đi, thỉnh thoảng mở ra mời mọi người đến xem. Nhân đó, tôi cũng tranh thủ nhìn ngó cuộc sống của mọi người, vì kiểu gì thì người xem cũng sẽ tâm sự gì đó sâu sâu về bản thân họ với tôi mà.
Mục tiêu trong tương lai của tôi là viết tiếp những cuốn nhật ký khác. Hi vọng có ngày sẽ thực sự giải mã được tôi là ai (hoặc chí ít, có câu trả lời tạm hài lòng).