Cuộc sống của họ gắn liền với những con sóng, với gian nan thử thách, nhưng cũng đầy ắp những khoảnh khắc đẹp đẽ và những tình cảm thiêng liêng.
Tôi sinh ra ở một làng quê ven biển, tôi lớn lên trên cát, cát bủa vây lấy làng tôi. Gió bốn bề quất cát vào làng tôi ràn rạt. Những trảng cát dài đùn lên ven biển, cát bám lấy mặt mũi, quấn vào tóc tôi cả lúc đến trường. Những cây Phi lao oằn mình xập xòa trên cát, gió từ biển thốc vào, Phi lao rạp mình xuống cam chịu. Ấy vậy mà nó vẫn can trường bám víu lấy cát, vẫn nẩy những chồi xanh mơn man thật diệu kỳ và mãnh liệt. Phải chăng cây phi lao cũng hệt như người làng tôi, như ông bà tôi đã bám vào cát, vào biển mà trường tồn, mà truyền nối nhau cất lên những tình yêu thiết tha về biển khôn nguôi.
Nhà tôi thuở ấy cách biển không xa, khi mùa hè đến, sáng sớm nào bọn trẻ làng cũng chạy túa ra biển. Băng qua mấy trảng cát là ra sát biển ngay. Khi mặt trời nhô hồng lên mặt biển, một quảng biển hồng lên ánh hào quang rực rỡ. Cát mát lịm dưới bàn chân, gió vi vu phả lên từng khuôn mặt trẻ thơ hơi ấm của biển cả. Chúng tôi hít thở hương vị mặn mòi của biển mà lớn dần lên, biển cho tôi biết về những giấc mơ đầu đời, giấc mơ của tuổi thơ về một con tàu vượt đại dương xa vợi.
.............
Ông nội tôi một đời lênh đênh trên biển. Khi tôi chưa kịp lớn thì ông cũng đã từ giã biển để sống tuổi già, đơn giản là vì ông không còn sức lực nữa. Những người đàn ông biển vốn là những người có sức khỏe và sự dẻo dai phi thường. Ông cũng vậy, gần bảy mươi nhưng ông vẫn ra khơi. Bởi biển là cơm áo của cả gia đình ông bà mà. Các cô chú trong nhà tôi lại đông, người đi biển, người chạy chợ, được con cá, mớ tép là phải gánh chạy thật nhanh để kịp bán tươi kiếm thêm đồng tiền đong gạo. Ông tôi bám mình trên biển bằng chiếc thuyền nan bé tẹo. Thuyền được ông làm bằng tre, tốt lắm cũng chỉ được vài năm lại hỏng. Hỏng lại làm, cứ thế, một đời ông không thể nhớ đã từng lênh đênh trên không biết bao nhiều chiếc thuyền như thế. Mỗi một chiếc thuyền là một số phận, giống như số phận của một ngư dân trước biển cả mênh mông.
|
Không phải lúc nào mặt biển cũng bao dung, những lúc hiền hòa là những lúc làng biển quê tôi lao xao, dập dìu tôm cá. Khi biển động, sóng vỗ uỳnh oàng, cả làng tôi lại thắc thỏm không yên. Ngày ấy, ông nội tôi đi biển theo kinh nghiệm trăng trời và khí tiết, làm gì có các phương tiện hiện đại như bây giờ! Khi giông lốc, bão gió bất ngờ không ai lường trước được. Bởi thế mà mỗi lần ra khơi là một lần đánh cược với số phận của mình. Thương sao những người vợ, người mẹ biển,.. Những trảng cát sau làng tôi từng thấm nước mắt khi có ai đó lỡ chuyến không về...
Biển vẫn thế, cho dù sao nữa, người làng tôi vẫn bám lấy biển, trườn trằn trên biển, vượt qua số phận và cả sự cuồng điên của biển cả để sống kiên gan như những ngọn phi lao sau trảng cát làng. Nhưng ông tôi, một đời xông pha biển dã, rồi tuổi tác cũng đánh gục ông tôi. Ông từ giã biển vào một ngày tháng ba có gió Nồm rười rượi. Ông nằm gối đầu lên cát, mắt vẫn hướng về biển khơi, Ôi! Cát lại vỗ về ôm ấp lấy ông, chào đón ông trở về yên lặng sau cả một cuộc hành trình mải miết bấp bênh. Hôm tiễn ông đi, một chiều nắng vàng rời rợi, nắng trải hắt lên những cồn cát im lìm, xa xa đôi chấm thuyền ngoài khơi ẩn hiện sau từng ngọn sóng. Những bụi phi lao lòa xòa trên cát, gió biển thốc vào mặn chát trên khóe mắt tôi.
Lên cấp ba, tôi phải đi học xa làng, xa biển. Suốt những tuần trọ học tôi nhớ nhà, nhớ biển đến quắt quay. Cuối tuần được nghỉ, tôi về làng, chạy òa ra biển, lao mình xuống nuớc thể như lâu lắm không được trở về. Ngồi trước biển, ngắm từng hang dã tràng bị sóng xóa mà nghĩ về một điều gì đó cũng thật vô cùng ý vị.
Làng tôi bây giờ có nhiều đổi thay chóng mặt. Những chiếc thuyền máy công suất lớn để đánh bắt xa bờ. Thuyền được trang bị nhiều phương tiện hiện đại cả về ngư cụ đến phương tiện dự báo, cứu hộ...Sản vật đánh bắt được mua bán với giá khá cao. Không như ngày xưa, ông nội tôi đánh được con cá mớ tép cũng chỉ đổi được và bó rau, lon gạo.
Tôi thả mình xuống cát, biển quê hương vẫn rì rào. Những cây phi lao vẫn nhoài ra phía biển như góc làng đang lấn dần ra trảng cát phía sau. Bạn bè thơ ấu của tôi ai rồi cũng ly tán theo áo cơm sự nghiệp. Bỏ lại quê nhà bốn phía cát bủa vây. Nhưng còn nguyên sơ một nỗi niềm về biển. Một nỗi nhớ biển đến cồn lên trong mỗi giấc mơ.
Tôi bước trên cát, nắng tháng tư trở mình đón gió biển, gió nồm nhè nhẹ báo hiệu những mẻ lưới nặng tay. Bất chợt tôi nhớ ông, nhớ những con thuyền bằng tre mong manh trên biển. Xa xa, bọn trẻ vẫn hùa nhau theo trái bóng, bọn trẻ làng tôi đi học ở trường và đi chơi trên cát. Cát lại nuôi lớn những lứa trẻ làng tôi lớn lên như sóng vỗ bờ.
Tôi cắm lên mộ ông tôi một nén hương, gió biển ngoài kia vẫn cứ rì rầm lời từ muôn thuở. Những cây phi lao choài ra trên mộ ông tôi thể như khát vọng sống kiên cường của người làng tôi trước biển cả bao la.
Biển Cửa biển Việt Nam thế kỷ XV: Những khúc xạ địa lý học lịch sử Trưng bày chuyên đề “Bí mật Đại dương từ những con tàu cổ” Như tiếng sóng đại dương* |