Vừa sáng, Mai nhận thông báo từ cô giáo của con rằng các em học sinh đều góp tiền để nhà trường thu ủng hộ các địa phương bị thiệt hại do mưa lũ, mức tối thiểu là... chiều tối đi làm về, dân phố lại gửi thông báo cùng với nội dung trên và đề nghị quét mã QR để chuyển tiền qua tài khoản... Vậy là ít nhất một phụ huynh phải lo hai lần đóng góp cùng mục đích, chưa kể rồi đến lượt công ty trừ luôn vào tiền lương tháng nữa chứ! Thế là tới ba lần cơ đấy. Mệt quá, không biết kêu ai được!
|
Mệt cả về thể xác đến tinh thần - tất cả cứ dày vò Mai hết ngày này qua tháng khác, kể từ khi cho con đi học. Năm nay con vào lớp 5, vừa tháng 8 đóng tiền mua sách vở và quần áo đồng phục hết 3 triệu đồng, sang tháng 9 nhận lớp lại đóng 3,8 triệu đồng để trường tu sửa phòng lớp, mua sắm từ cái điều hòa đến cái chổi quét nhà, rồi kế ngay sau ngày khai giảng, trường triệu tập họp phụ huynh, lại đóng 3,3 triệu đồng cho bảo hiểm và đủ các loại quỹ, trả công vệ sinh v.v, có đến 15 nội dung... Thế là cần phải có khoảng 10 triệu đồng để đóng góp các khoản “bắt buộc” ngay đầu năm cho một con đi học.
Nhưng cái sự học đâu chỉ có thế. Theo nhà trường thì mỗi ngày, lớp chỉ học đến 16h thôi. Tan trường vào cái giờ quái quỷ ấy, sao mà đón con được. Thế là trường tổ chức thầy cô dạy thêm giờ - có thể là học các thể loại khác như kỹ thuật, thể thao hay kỹ năng sống... để chờ đến khi tan tầm phụ huynh mới đến đón con em về được. Lại nữa, về đến nhà, nếu bố em chưa về, mẹ con lại vội vàng ăn uống tạm bợ, cùng ngồi chiếc xe máy cũ kỹ đi học thêm ở nơi nào đó do cô thu xếp, tuần ba, bốn buổi tối. Mẹ quay về dọn dẹp nhà cửa, quần áo... đến gần 20 giờ mới đi đón con về, lại chúi đầu vào bàn học, nào là vài bài tiếng Việt, tiếng Anh, là dăm ba đề toán để trả bài ngày mai. Tối ngủ muộn, sáng dậy sớm, chở con với một túi sách nặng gần như balô bộ đội đến trường, rồi mẹ vội vã đi về phía khu công nghiệp. Nhiều lần Mai đã định không cho con đi học thêm buổi tối, nhưng lại không thể “liều” thế được. Con nhà người ta học, con nhà mình không thể không theo. Vừa lo có thể có phần kiến thức nào đấy chỉ học thêm mới có, phần nữa ngại rằng - biết đâu đấy, cô có định kiến với con mình. Nghĩ thế chị lại càng thương con, có 7 triệu đồng lương tháng, phải xin thêm từ số lương hưu ít ỏi của mẹ mà nhẫn nhịn cho con theo học.
Hiện nay, cả nước ta có khoảng trên 4 triệu người lao động trực tiếp tại các khu công nghiệp. Ở phía Bắc thì Hà Nội có trên 130 ngàn, Phú Thọ khoảng 185 ngàn, Hải Phòng trên 100 ngàn, Quảng Ninh trên 33 ngàn, Ninh Bình khoảng 166 ngàn, Hưng Yên khoảng 106 ngàn và Bắc Ninh lên tới 527 ngàn người... Đây là một lượng lao động rất lớn, với thu nhập khá thấp (bình quân khoảng 7 triệu đồng/tháng).
Các kênh thông tin khẳng định về “Bức tranh thị trường lao động Việt Nam có nhiều điểm sáng đáng ghi nhận” hay “Các khu công nghiệp thu hút lao động để phát triển”, “Lao động có việc tăng ổn định” và “Tăng trưởng sản phẩm xuất khẩu ở mức cao”... Nguồn thu của các doanh nghiệp - nhất là liên doanh với nước ngoài tại các khu công nghiệp là rất lớn, có nghĩa nguồn thu của giới chủ là rất cao. Ngược lại, lượng lao động phổ thông có nguồn thu không tương ứng... Những lao động khu công nghiệp này coi đây là con đường, là chọn lựa cuối cùng của họ bởi không thấy có cơ hội việc làm nào đáp ứng phù hợp hơn. Dù mệt mỏi, dù chỉ kiếm được chút ít cũng phải làm, còn hơn là không được gì!
Chúng ta cần khẳng định rằng: lao động là con đường duy nhất đúng cho mọi người. Từ năm 1952, Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết “Đạo đức lao động” đăng trên Báo Cứu quốc, số 2092 đã nói: “lao động là vinh quang” được khẳng định như một chân lý của cuộc sống. Ở thời đại ngày nay, với mặt bằng thu nhập được coi là khá giả, là văn minh và tiến tới hình ảnh một “cường quốc”, chúng ta nhất định cần xem lại việc sử dụng lao động - trước hết với lượng lao động to lớn ở các khu công nghiệp.
Nghe nói, hiện nay, có nhiều lao động ở các lĩnh vực được coi là “sáng giá” như các ngành ngân hàng, tài chính, dầu khí, y tế, giáo dục, viễn thông và khá nhiều danh chức khác nữa... mức thu nhập có thể lên tới 200, 300 triệu đồng một tháng. Đến dịp cuối năm lại còn được thưởng vài trăm triệu đến hàng tỷ đồng trích từ quỹ khen thưởng của cơ quan, doanh nghiệp. Đấy là nguồn thu nhập hợp pháp và dĩ nhiên là một điều tốt cho lao động và xã hội. Dần dần, các chi dùng thông thường như ăn ở, đi lại, học tập của con em, khám chữa bệnh và các sản phẩm đáp ứng nhu cầu thưởng thức... đua nhau tăng lên một cách nhanh chóng, vô hình chung đẩy những lao động có thu nhập thấp vào chỗ khốn khó. Ví như, họ cũng phải lo mức tiền viện phí, mức đóng góp cho con theo học tương đương với người coi khoản đóng góp ấy chỉ là chuyện “quá đơn giản”. Vậy chính sách cân đối, điều tiết giá trị lao động xã hội của ta đang ở đâu?
Trở lại từ câu chuyện của chị Mai ở trên. Đấy chỉ là những cái khó thông thường đeo đuổi mà chúng ta nhìn thấy. Lại còn như việc người nhà gặp tai nạn xe máy, bố mẹ ốm đau nằm viện, việc nhà việc làng, việc họ, việc ma chay, cưới xin, kể cả việc khi chính mình gặp rủi ro nữa... thật khốn khó, tủi cực trăm bề. Lĩnh lương ban sáng, ban chiều đã phải nộp lại hết bởi đơn giá các chi phí sinh hoạt ngày càng tăng cao. Đã có trường hợp phải đi “vay nóng”, chậm trả, đã dẫn đến tình thế thật đáng thương tâm.
Tại sao các lao động khu công nghiệp lại thường bị xử phạt vi phạm từ trong công ty cho đến ngoài cộng đồng? Hàng ngày, họ làm việc liên tục từ 8 đến 10 tiếng. Bởi vậy họ không thể làm thêm được gì ở ngoài và không thể lợi dụng thời gian nghỉ ngơi trong khuông giờ mặc định. Họ tận dụng hết ngày Chủ nhật để giải quyết mọi việc hay mọi nhu cầu liên quan tồn đọng trong tuần. Thu nhập của họ chỉ là vẻn vẹn trong tiền lương công ty trả. Từ cái khó ấy mà đa phần họ không quan tâm hoặc ít tiếp cận với tivi, sách báo; không được nghe hoặc không có tài liệu phổ biến pháp luật... Thực tiễn hoàn cảnh từ tâm lý đến ứng xử ấy thường dẫn đến các hành vi vi phạm trong giao tiếp xã hội. Ví như, nếu họ bị xử phạt vi phạm khi tham gia giao thông, hay phạt vì chậm kê khai hộ khẩu cho con mới sinh, âu cũng là chuyện thường, họ chỉ biết tự cộng thêm vào sự nén chịu tủi cực phận mình.
Gần đây, chính Tổng cục Thống kê cũng thẳng thắn thừa nhận rằng “vẫn còn một số điểm hạn chế với các biểu hiện như: tỷ lệ lao động phi chính thức còn cao, tuy có giảm nhưng vẫn chiếm tới 63,5%, nghĩa là phần lớn lao động chưa có hợp đồng chính thức, dễ bị tổn thương khi có cú sốc kinh tế - xã hội”. Người lao động khu công nghiệp rất dễ bị tổn thương bởi họ không thấy có chỗ dựa tin cậy, không có đủ tiền để trang trải cho cuộc sống vốn thường hay xảy ra các sự cố bất ngờ.
Lao động phổ thông trực tiếp ở các khu công nghiệp giữ vị trí quan trọng, chủ lực đối với các sản phẩm hàng hóa xuất khẩu. Từ khâu chế biến các sản phẩm nông lâm hải sản đến các sản phẩm may mặc, tạp hóa, cơ khí và điện tử... Họ gắn bó với doanh nghiệp và trở thành những công nhân lành nghề, mẫn cán rất đáng được tôn trọng. Tuy nhiên, thu nhập của họ so với mặt bằng giá cả bây giờ là quá thấp. Nếu so với lao động cùng loại đang làm thuê tại Hàn Quốc, Nhật Bản... thì thu nhập của họ chỉ bằng khoảng 1/10 mà thôi.
Vậy Nhà nước cần có một cơ chế pháp lý phù hợp với loại lao động đặc thù này, ít nhất là để họ có điều kiện đáp ứng những nhu cầu cần thiết nhất trong đời sống hàng ngày. Một mặt, cần tăng giá trị ngày công lao động và tăng thêm các điều kiện tiếp xúc, hưởng thụ lợi ích công cộng, mặt khác không cứng nhắc cào bằng các khoản đóng góp xã hội như với những người có thu nhập trung bình cao và xác định lại các khoản thu bất hợp lý mà họ đã, đang và sẽ còn phải nộp cho con em, cha mẹ họ để giảm bớt nỗi cơ cực làm tổn thương đến tình cảm vì cộng đồng xã hội cũng như vì quê hương đất nước của họ. Qua đó, chúng ta góp phần bảo vệ “giá trị thiêng liêng” của lao động như lời Bác Hồ kính yêu đã nói, và để thực hiện mục tiêu mới: “không để ai ở lại phía sau”.