Nhà thơ Lê Cảnh Nhạc là người nồng hậu, tinh tế, sâu lắng, sống tử tế với cuộc đời và thơ ca. Anh đa tài, thành công ở nhiều thể loại, đề tài. Bất kỳ ở thể loại nào, thơ, văn xuôi, hay kịch bản, ký... người đọc dễ dàng nhận ra ở anh có một nội lực sáng tạo mạnh mẽ, với cách viết giản dị, đằm thắm, nhưng có tính triết lý sâu sắc và thấm đẫm chất nhân sinh.
Lê Cảnh Nhạc đã xuất bản 9 tập thơ và truyện ký; tác giả ca từ của gần 150 ca khúc, hợp xướng; tác giả kịch bản nhiều chương trình nghệ thuật. Anh đã đoạt Giải thưởng Cuộc thi sáng tác văn học cho thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam và Trung ương Đoàn 1990-1991; Cuộc thi sáng tác VHNT (Giải Nhì về thơ) tại Liên bang xô viết của Đại sứ quán Việt Nam tại Liên xô (cũ) 1985-1988; Hai lần đồng Giải A - Giải thưởng Văn học nghệ thuật, báo chí 5 năm của Bộ Quốc phòng (2009-2014 và 2014-2019)...
|
Hiện, nhà thơ Lê Cảnh Nhạc là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Hà Nội; hội viên Hội Nhà văn Việt Nam từ năm 1996.
Tập thơ “Đi về phía mặt trời” vừa được xuất bản là tập thơ để lại nhiêu ấn tượng đặc biệt đối với độc giả. Bởi bên cạnh tính triết lý, sâu sắc, còn là sự thăng hoa với cái đẹp của cuộc sống và những giấc mơ về hạnh phúc và giá trị đích thực trong mỗi cuộc đời.
Với 230 trang và 122 bài thơ, “Đi về phía mặt trời” đã thuyết phục người đọc trước hết là những âm thanh đồng vọng của cuộc sống, tình yêu trong những cung bậc thăng trầm, giữa thiện và ác, giữa còn và mất, giữa xa và gần, giữa quá khứ và hiện hữu, giữa thực và mơ, giữa hiện thực và khát vọng…
Nếu như ở các tập thơ “Khúc giao mùa”, “Không bao giờ trăng khuyết”, “Khúc thiên thai”, sự tinh tế, mượt mà, dịu dàng và nồng hậu của thơ như một phong cách tạo nên một Lê Cảnh Nhạc riêng biệt thì ở tập thơ này, độc giả bất ngờ bởi chất suy tưởng, triết lý sâu sắc như một điểm nhấn bên cạnh yếu tố trữ tình, đằm thắm quen thuộc.
Cuộc sống, được đúc kết và khái quát trong bài thơ “Hạt bụi”, rất đáng để chúng ta soi mình và suy ngẫm. Anh coi cuộc sống như bàn cờ, còn cuộc đời như đồng hồ cát. Trong ván cờ cuộc đời, thi đấu với chính mình là khó khăn nhất, bi kịch nhất và khốc liệt nhất. Tuy nhiên mấy ai thắng được chính mình?
“…Người khôn nhiều ván thắng/ Người dại nhiều ván thua/ Thắng thua phù du cả/ Đừng ăn gian bao giờ” (Hạt bụi)
Triết lý vô thường ẩn chứa đằng sau những câu thơ dung dị mà đầy tính chiêm nghiệm, khái quát ấy. Ở một cách nhìn khác, cụ thể hơn, khi viết về sự cám dỗ, nhà thơ đã đưa ra bức tranh tương phản giữa ánh sáng và bóng tối, sự mê hoặc của bóng tối đã dẫn dụ con người đi vào cõi vô minh. Cái kết của sự đối lập ấy, chính lời cảnh báo không chỉ riêng cho một người, mà cho tất cả mọi người.
“…Cơn khát cuồng si nô lệ/ Bóng tối gian manh vỗ về tâm trí/ Uốn lời ta lúc diễn thuyết đăng đàn/ Ta nhón cao/ Bóng tối lớn dần/ Vỏ áo choàng nuốt quầng ánh sáng…” (Cám dỗ)
Thiết nghĩ ai cũng có những cảm nhận và linh tính khi biết được bóng tối vô minh, của lòng tham, sân, si… quẩn quanh, lẩn khuất trong mình và chung quanh.
Nếu hư vinh cuốn đi những danh tiếng và giá trị nhân văn, khiến bao con người đổ gục trước hai tiếng kim tiền, như trong bài thơ “Hư vinh”, thì “Quyền lực” là lời cảnh báo trước hiện thực trơ trẽn, giả dối, trắng trợn, vô lương của những kẻ cố gắng leo lên nấc thang quyền lực rồi sau đó phủ nhận lên những giá trị nhân văn, đạo đức. “Quyền lực” là sự khái quát, nhưng hết sức cụ thể, mà ai cũng có thể bắt gặp vì trong cuộc sống này, nhan nhản những kẻ sẵn sàng đánh đổi mọi giá trị đạo đức để leo lên những nấc thang danh vọng.
…“Nhiễu loạn thực hư đua tranh láo nháo/ Nhiều khi thành con rối giữa vòng vây/ Tiếp cận ô dù, gõ cửa cầu may/ Uy quyền quan thầy nâng hư danh đệ tử/ Dễ thành kẻ vô tình trước vui buồn quá khứ/ Bè bạn thuở hàn vi ngày một vắng xa hơn/ Mượn lòng tốt người đời để thành kẻ ban ơn/ Quan hệ mới choàng vào như áo gấm…” (Quyền lực)
|
Bức tranh nhân thế được nhà thơ đưa ra như một sự tương phản, ngậm ngùi và tiếc nuối. Giữa ảo và thật, giữa thất vọng và hy vọng, với nỗi buồn không thể kìm nén. Nhà thơ nói về nhân thế mà như nói với cuộc đời, với chính mình:
“…Còn lại chút nhân tình thế thái/ Sao đếm đong đáy biển lòng người/ Ai rồi cũng trở về cát bụi/ Núi đổ rồi phận đá bạc như vôi” (Nhân thế)
Còn rất nhiều bài thơ, câu thơ trong tập thơ này khiến người đọc chùng xuống, trĩu nặng suy tư và bừng tỉnh thức bởi tính triết lý, khái quát sâu sắc và cảnh báo trong từng con chữ, hình tượng với cách nói so sánh, tương phản, vừa độc thoại vừa đối thoại.
Ở một nội dung khác, chủ đề tình yêu, gia đình và quê hương - mặt mạnh trong thi pháp của Lê Cảnh Nhạc. Anh như người thả chữ theo ô. “Câu chuyện của trái tim” được thả từ những nỗi buồn vui, chiêm nghiệm, mong manh và nhạy cảm của cảm xúc. Anh thả vào ô chữ Ngu Ngơ. “Người yêu dấu ơi” thả vào ô chữ Kiếm Tìm. Số phận và “Hai nửa” thả vào ô chữ Hạnh Phúc. “Nỗi nhớ” thả vào ô chữ “Đợi”. “Thiên thần và quỷ sứ” đã rơi vào ô chữ Tình yêu…
Nhưng không phải ô chữ nào cũng là ô chữ may mắn. Bao nhiêu hoài niệm, tiếc nuối, day dứt, yêu thương và mong đợi đã theo anh bên cánh đồng Tình yêu mà anh là người gieo hạt, gặt hái. Bên cạnh những yêu thương cháy bỏng, vẫn còn những lời tự thú trong chiều hôm nắng quái. Đây không chỉ là lời tự thú này, mà còn là sự chênh chao, với nỗi buồn thẳm sâu, không dễ nguôi ngoai:
“Tay rỉ máu đóa hồng đầy gai sắc/ Vây bủa nụ cành giăng mắc vườn yêu/ Hạnh phúc mơ hồ tê buốt nhói đau/ Hơi ấm nồng nàn xót lời cay đắng/ Giấu yêu thương vào đêm tĩnh lặng/ Mơ hồ bão giông xéo nát vườn tình/ Dẫu nụ hoa vẫn mở cánh phương mình/ Làn hương dại u mê chiều nắng quái…” (Tự thú)
Nhưng cuối cùng, tình yêu đích thực bao giờ cũng hiển hiện và khẳng định sự hiện hữu:
“… Khỏa lấp cô đơn xoa dịu thương đau/ Hai dòng sông tan hòa vào biển cả/ Mặc kệ ai kiếm tìm người vay trả/ Hạnh phúc đong đầy hai nửa thuộc về nhau” (Hai nửa)
Tôi thích hai từ “mặc kệ” mà đầy trách nhiệm này. Nó thể hiện nguyên lý cần “buông” để “giữ” trong tình yêu. Hai nửa thuộc về nhau. Thế là đủ đong đầy hạnh phúc.
Trong tập thơ, rất nhiều hình tượng đẹp như cỏ, hoa, ban mai, ánh lửa, cánh đồng, trái chín… khi nhà thơ nói về tình yêu. Hình tượng người đàn bà đẹp với bờ vai nuột nà, qua ánh trăng, con sóng, qua giấc mơ và cái run rẩy hạnh phúc… cũng đủ thấy trong thơ anh đã có một ban mai tỏa nắng, đủ để cho con chữ và cảm xúc thăng hoa ngập tràn trong yêu thương và nỗi nhớ, đằng sau giông bão cuộc đời.
Tinh tế, chân thật, mộc mạc và dịu dàng, tình yêu trong thơ anh khiến người đọc nhận ra bóng mình thấp thoáng trong đó. Đây cũng là “chất” của Lê Cảnh Nhạc. Chất của con người không thích hào nhoáng, phô trương, giả tạo - trong văn chương và cuộc đời.
Viết về gia đình, về mẹ, con trai, về quê hương và những danh thắng lịch sử cũng vậy, những vần thơ nồng hậu, chứa chan tình đời, tình người của anh đã khiến người đọc xúc động. Nếu không sống thật và yêu thương hết mực cuộc đời tươi đẹp mà đầy bất trắc này, làm sao có thể có những câu thơ mang hơi thở cuộc sống, như những trang nhật ký cuộc đời đa diện chân thực đến như vậy?
Dù cái ác có hiển diện, và sân khấu cuộc đời “không có cánh gà / cho kép đào thay áo” nhưng tôi tin, khi “đi về phía mặt trời”, thi sỹ sẽ nhận được hoa thơm trái ngọt. Đó không chỉ là món quà xứng đáng mà còn là sự hồi sinh, khi bốn bề “… Hoa trái nuột nà, nhựa sống thanh tân”.
Tập thơ là những lát cắt của cảm xúc và cuộc sống. Chất triết lý suy tưởng khiến người đọc giật mình và tỉnh ngộ. Chất trữ tình với những cảm xúc tinh tế, khiến người đọc hoài niệm và mộng mơ. Tôi thích sự tương phản đan xen này.