Trong các tác phẩm văn chương, có những thân phận văn học ám ảnh người đọc không dứt, nhưng trong đời thực nhiều thân phận của người viết văn cũng chẳng kém cạnh gì. Những thân phận chìm nổi trong cuộc đời đôi khi là hoạn nạn là bất hạnh với người đời, nhưng với người viết nhiều khi nó lại là “món quà” của thượng đế ban tặng, bắt họ phải nhận dù muốn hay không, để làm hành trang, là trải nghiệm vô giá phải trả bằng mồ hôi và nước mắt, thậm chí bằng máu, bằng sự khổ đau của kiếp người. Có lẽ khi đón nhận những “món quà” của số phận như vậy thì chỉ có một điều có thể cứu rỗi họ đó là cây bút và trang giấy trắng. Cuộc đời đã giống như một pháp trường, đến khi đối diện với trang giấy trắng cũng đâu dễ dàng gì. Thôi thì ta cứ đón nhận thành tâm với cuộc đời và trang giấy trắng.
Hoàng Bình Trọng, một nhà văn tài hoa mà theo như lời nhà văn Trương Thu Hiền ở Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình, ông là một cuốn “Bách khoa toàn thư”, một “Từ điển sống” của Hội.
Hoàng Bình Trọng nổi tiếng bởi tiểu thuyết “Bí mật một khu rừng” viết cho thiếu nhi được dịch ra tiếng nước ngoài và tái bản nhiều lần. Người đọc còn biết thêm về một Hoàng Bình Trọng nữa rất lãng mạn, hào hoa nhưng cũng rất thâm trầm và bạo liệt trong các tập thơ, trường ca của ông sau này.
Xuất thân từ một gia đình nông dân, cha vào Sài Gòn làm nghề phiên dịch tiếng Pháp cho cơ quan Lục lộ. Sau cách mạng Tháng Tám, cả nhà ông chuyển về quê rồi đi theo kháng chiến. Cuộc đời lênh đênh trên sông nước, ông đã được đi nhiều nơi, sống ở nhiều miền quê trên đất Quảng Bình, Hà Tĩnh. Mẹ mất sớm, Hoàng Bình Trọng có lúc phải vào trại mồ côi. Ông chịu ảnh hưởng ít nhiều từ cuộc sống phóng túng của người cha. Ông thuộc nhiều làn điệu dân ca, các điển tích Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm và hiểu biết khá nhiều văn chương Đông Tây Kim Cổ. Ông đã được học Hán văn, Pháp văn trong kháng chiến, rồi tốt nghiệp đại học Địa chất những năm đầu của thập niên sáu mươi, thế kỉ trước. Ra trường tìm mỏ, dạy học, trở thành nhà văn và đi bộ đội.
|
Năm 1971, trên đường hành quân phía Tây Trường Sơn, đơn vị ông gặp một phụ nữ người dân tộc đang chuyển dạ bên bờ suối. Ban chỉ huy loay hoay chưa biết xử lí bằng cách nào thì Hoàng Bình Trọng đến. Ông xung phong đỡ đẻ. Ông có người chị làm nghề đỡ đẻ nên cũng có biết đôi chút về món này. Kết quả “mẹ tròn con vuông”.
Đơn vị tiếp tục hành quân. Đến Binh trạm 9 thì cậu y tá của đơn vị bị sốt rét phải nằm lại. Đêm ấy địch ném bom tọa độ trúng tuyến đường chuyển quân. Cô giao liên bị thương vào vùng kín. Mới 17 tuổi đầu, cô thẹn thùng không cho ai sờ tay tới. Cả đơn vị ai cũng nhìn vào ông. Với chất giọng Quảng Bình lại tiếng nói hơi khào khào Ông kéo sụp chiếc mũ cối xuống cho lấp mặt rồi đóng vai Trung đoàn trưởng, xé chiếc áo lót đang mặc để băng bó cho cô. Đến Binh trạm 10, cô gái mới biết ông là một thanh niên chưa vợ. Từ đó về sau cô cứ quấn quýt bên ông. Khi hai người đã bén duyên nhau, ông rời binh trạm lên tuyến trước cô khóc như mưa.
Rời quân ngũ, ông trở về Vĩnh Phú làm Thư kí tòa soạn cho tạp chí Đất Tổ, nhưng một bước sa cơ, vì muốn về quê, ông đã đánh đổi cả mấy chục năm công tác để về chế độ 176. Cuộc đời cơ cực của ông bắt đầu từ đây. Ông đi làm thuê bất cứ một việc gì, miễn là có tiền, có gạo. Ông vào tận Tây Nguyên đào hố cà phê. Những người vào làm trước, quen hơn đã chọn những lô đất ít sỏi đá, dành lại cho ông lô đất phía trên thì mềm nhưng phía dưới toàn đá gan gà. Đến ngày thứ 15, người yếu nhất họ cũng được trên 400 hốc, riêng ông chưa đến 200.
Một hôm, vừa đói vừa khát, ông xuống suối xách lên một bi đông nước và mở đài ngồi nghe dưới gốc cây to. Đài đang đọc truyện dài kỳ “Bí mật một khu rừng” của ông. Mấy thanh niên khúc khích cười: “Trọng nào hay Trọng đào hố ở đây”. Ông cười vang: “Thì chính tớ đây chứ ai”. Cả bọn lại được dịp chế nhạo, họ đặt cho ông đủ thứ biệt hiệu sặc mùi kiếm hiệp, kiểu như: “Trượng phu thất thế”, “Anh hùng sa cơ”. Mấy ngày sau xuất hiện một người đàn ông mặt mũi phương phi, cơ bắp cuồn cuộn cầm cuốc chim, xà beng đến: “Anh Hai! Có phải anh ở sư đoàn 304b không? Mấy ngày nay em cứ ngờ ngợ. Em là người cầm đầu vụ phản chiến ở rừng cao su Long Khánh”. Thì ra đó là người chỉ huy đại đội hàng binh mà Hoàng Bình Trọng đã đem lên giao trên chiến khu. Thế rồi, không biết ông ta nói gì mà vài chục phút sau cả bọn ào tới đào cho ông 630 hốc.
Chuyện đến tai nhà báo Ngọc Tấn. Ngọc Tấn lúc đó phụ trách mục “Văn hóa Văn nghệ” của tờ Gia Lai cuối tuần. Tấn kể rằng: “Em nghe người ta nói ngoài rẫy có một ông nhà văn người Quảng Bình vào đào hố cà phê. Khi em đến thì thấy anh Trọng người đen như củ súng, tóc tai bờm xờm, râu ria không cạo, quần áo bê bết một lớp đất đồi đỏ quạch. Em bảo anh ấy viết bài rồi em đăng cho lai rai. Thế là anh ấy vừa đi đào hố vừa làm thơ và viết truyện ngắn”.
Ông đi làm hợp đồng, biên tập cho một số tạp chí trong Nam, ngoài Bắc và cuối cùng, nhà thơ Văn Lợi mời ông về biên tập cho tạp chí Nhật Lệ.
Vừa làm biên tập vừa viết truyện ngắn, tiểu thuyết, đồng lương hợp đồng không đủ trả tiền thuê nhà và nuôi con. Năm 2006, ông về xã Quảng Hòa cùng với vợ.
Với hàng chục giải thưởng truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, truyện dịch, những năm sau này ông dồn sức làm thơ và viết trường ca. Năm 2012, trường ca “Tướng Giáp - Người Anh Cả của toàn quân” của ông giành được giải nhất do Hội Nhà Văn phối hợp với Nhà xuất bản Kim Đồng và Trung ương Đoàn tổ chức.
Năm 2014, ông cho ra mắt tập thơ “Cõi lặng” - một nốt trầm trong cuộc đời cũng rất thăng trầm của ông.
Là một nhà văn có trách nhiệm với đời, ông luôn trăn trở, suy tư trước khi đặt bút xuống trang viết. Trong bài “Trước trang viết” ông đã phát đi bản tuyên ngôn:
Ta trầm tư, ngọn bút cũng trầm tư
Cả gian phòng ngập chìm trong tĩnh lặng
Trang giấy trắng hóa pháp trường màu trắng
Chĩa vào ta ngàn họng súng vô hình
Là một người có học, có tài, nhưng không chịu cúi luồn nên ông vẫn là nạn nhân của những kẻ cậy chức quyền. Đối với ông nhân phẩm, danh dự là trên hết. Hôm đi hái lá thuốc. Mỗi khi động vào cây xấu hổ thì lá của nó khẽ khàng khép lại. Ông so sánh loài cây bé nhỏ với con người, nó vẫn biết tự trọng hơn những người vô liêm sỉ:
Tuy bé mọn nhưng biết đường liêm sỉ
Em khác xa loài trán bóng mặt trơ
Ai khinh bỉ, tha hồ khinh bỉ
Bọn chúng không xấu hổ bao giờ! – (Cây xấu hổ)
Gặp không may trong cuộc đời, ông đã trở thành người thất thế. Hôm đi hái củi ở Quảng Sơn, vì không có năm trăm đồng nộp tiền lệ phí, ông đã bị trạm kiểm lâm “tịch thu” mất gánh củi. Người ta nộp tiền thì được gánh củi về, riêng ông không tiền ở lại xin xỏ. Đến bữa cơm, anh em kiểm lâm mời ăn. Tưởng ăn khách, ai dè ông làm thật, đánh liên tù tì một lúc ba bát. Đến lúc vợ ông đến thấy ông đang ngồi ăn cơm liền la lên: “Nhà văn ơi là nhà văn. Bị tịch thu thì về chứ sao ngồi lại ăn cơm của người ta”. Lúc đó ông mới đứng dậy nhưng vẫn nhìn mâm cơm thòm thèm. Biết ông đói. Vợ ông đứng lặng, hai hàng nước mắt cứ chảy ra ròng ròng. Mấy ngày nay trong nhà ông không còn một hạt gạo.
Ngày nay chuyện cơm áo không còn thành vấn đề nữa. Nhớ lại chuyện xưa, ông cất tiếng cười chua chát:
Chai lì kiếp nạn làm người
Hết cười áo rách ta cười đói cơm,
Cười trong chớp bể mưa nguồn,
Cười trong bão đạn mưa bom bời bời…
Đã quen mất nết đi rồi
Về già ta ném tiếng cười vào thơ - (Tiếng cười)
Về già, ông lại “ném” tiếng cười vào trong các trang thơ và truyện ngắn.
Hôm ra được tập sách mới, ông đến nhờ tôi chở đi bán. Bì sách đặt đằng trước, người ngồi đằng sau, tôi đưa ông đến các trường quen biết. Tôi giới thiệu với các thầy hiệu trưởng trong tỉnh, ông là nhà văn Việt Nam đã từng làm thầy giáo dạy địa chất. Thầy hiệu trưởng Trường trung học số 2 Quảng Trạch thương tình mua cho ông bốn cuốn. Muốn nài nỉ mua thêm, ông liền khoe ngày xưa chống Pháp, ông đã được học với thầy Ngân - ông cụ thân sinh của thầy hiệu trưởng ở trường cấp 2 Cự Nẫm. Thầy hiệu trưởng Trường trung học số 2 Quảng Trạch cười: “Bác thông cảm, vừa có ba người mới đến đây bán sách xong. Mà ngày xưa ba cháu làm việc ở Ty giáo dục Quảng Bình chớ đâu về dạy ở trường cấp 2 Cự Nẫm”.
Xuống trường Trung học cơ sở Quảng Văn, thầy hiệu trưởng nói với tôi: “Anh thông cảm, ngày nay bài học trong sách giáo khoa mà học sinh còn không đọc, nói gì đến thơ”. Nghe đến đó Hoàng Bình Trọng đỏ mặt tía tai. Ông lấy ra một chục cuốn sách và bảo: “La Hà, Quảng Văn là quê của mẹ tôi. Tôi xin biếu nhà trường mười cuốn cho các cháu đọc”. Nói xong, anh giơ hai tay nâng chồng sách mười cuốn lên trao tận tay cho thầy rồi ra về. Khi chúng tôi về đến cánh đồng Hợp Hòa thì thầy hiệu trưởng trường Quảng Văn chạy theo và nói: “Khi nào kế toán viết xong hóa đơn, mời bác xuống trường mà nhận tiền”. Sau sự kiện đó ông có truyện ngắn “Một chuyện lạ đời” viết về việc đi bán sách dưới âm phủ rất hay. Ông khao khát một ngày nào đó các nhà văn sống được bằng tiền nhuận bút và tiền bán sách.
Ông viết ngày, viết đêm để có tiền nhuận bút nộp cho vợ. Một buổi trưa hè nóng nực ông đánh trần, nằm sấp giữa nền nhà mà viết. Bên chiếc quạt cóc cũ rè rè, trang giấy bay lật phật, bàn tay ông nhớp nháp mồ hôi.
Tôi nói: “Làm gì mà tội khổ thế anh Trọng?”. Ông cười: “Tháng này tớ còn thiếu một triệu nữa mới đạt khoán. Mụ nhà tớ khoán ba triệu rưỡi”.
Mặc dù cuộc sống bần hàn, nhưng khi một kẻ háo danh đến “mua” ông và nhờ ông giới thiệu là biên tập viên của Tạp chí Văn nghệ Quân đội, để được kết nạp vào Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình, ông đã từ chối. Hồi đó tiêu chuẩn được vào Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình là phải có 10 bài thơ hoặc 5 truyện ngắn, bút kí… được đăng trên các tạp chí văn nghệ của tỉnh hoặc các tỉnh bạn. Ông nói: “Trong thời gian biên tập, tôi chưa đăng bài nào của anh”. Gã đưa tiền ngã giá, ông gạt phắt và đuổi thẳng cẳng. Tiền bạc đối với ông lúc đó là gạo, là cơm, là máu và cuộc sống nhưng ông chỉ quen “ăn rau sạch”.
Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật tổ chức trại viết tại Phú Yên, biết tôi và nhà thơ Hoàng Đăng Khoa là người Quảng Bình, nhà văn Huỳnh Thạch Thảo - Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Phú Yên lại bảo: “về nói với anh Trọng có cái gì hay gửi vào cho em, nhưng phải bằng Email”. Tôi tặng anh Trọng một chiếc USB để anh nhờ người ta đánh máy rồi gửi. Mấy tháng sau, anh thấy tác phẩm của anh đăng trên báo Trung ương nhưng mang tên người khác. Thậm chí có người còn lấy thơ anh rồi đổi nhan đề gửi cho báo Quảng Bình, may mà biên tập viên phát hiện được. Tôi đã gặp những người đạo thơ anh, góp ý. Họ bảo đó là “sự va quệt trong văn chương” nên tôi đành phải viết bài cảnh cáo: “Những nạn nhân của việc đạo thơ” đăng trên báo Quảng Bình.
Biết tôi bị bệnh trọng, anh đội nón, đạp xe vào thăm. Tôi nói: “Em sợ chết lắm anh Trọng à”. Anh cười: “Mình cũng muốn chết mà không chết được đây. Nhưng mà chết sao cho nhẹ nhàng chứ ho mãi thế này thì mình không chịu được”. Căn bệnh viêm phế quản đã hành hạ ông suốt chục năm ròng. Bảy mươi lăm tuổi, ông an phận lui về trong chốn không gian tĩnh mịch, về với cái thế giới của riêng ông để mà tâm tưởng:
Tôi lãng du cùng mây bạc sườn non
Tôi bạn hữu hóa không gian vô tận
Tôi khoảnh khắc hóa thời gian vĩnh viễn
Trong cõi lặng thầm tôi tìm thấy hồn tôi - (Cõi lặng),
Hoàng Bình Trọng là một người không theo Phật giáo nhưng ông tôn thờ đạo phật. Hàng ngày ông vẫn đóng cửa “ngồi thiền trong Cõi lặng” để mà ngẫm nghĩ sự đời. Ông tiếp tục suy tư và viết bản trường ca mới - Trường ca Nguyễn Huệ. Bệnh tật đã không quật ngã được ông khi ông vẫn đang còn khát vọng văn chương.
Văn nghệ số 13/2015