Vừa đặt chân đến vùng đất nóng bỏng Nam Trung bộ, ông “viết ngắn”, không phải ở thể văn quen thuộc, mà thuộc địa hạt thơ. Và có được thành công ngoài mong đợi. Đó là trường hợp bài Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi! Đây không phải lần đầu ông làm thơ. Năm Nam Hà 18 tuổi đang là lính chiến thuộc Tiểu đoàn 195, Nghệ An, đau đớn trước mất mát quá lớn, một đại đội thuộc tiểu đoàn hy sinh gần hết, ông viết tại trận 150 câu thơ khóc đồng đội. Đến lễ truy điệu, chính trị viên tiểu đoàn bảo ông lên đọc thay điếu văn bài thơ đó (Điếu văn bằng thơ, là điều hiếm trong thời hiện đại, còn cổ xưa phổ biến thể “văn tế” - một loại thơ khóc thống thiết, có mẹo luật). Và lần này, khi đã là người lính dạn dày trận mạc, Đường dài đi giữa Trường Sơn/ nghe vọng bài ca đất nước, cảm hứng sử thi hùng tráng đến với ông, trong bài có những vần thơ xuất thần như: Đất nước/ Của những người con gái, con trai/ Đẹp như hoa hồng, cứng như sắt thép/ Xa nhau không hề rơi nước mắt/ Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt... Rồi ông nhờ người bạn ở Thông tấn xã Việt Nam đánh “mooc” gửi ra miền Bắc. Sau chừng nửa năm, ông cũng quên lần gửi bài hú họa như thế, một đêm trong rừng Bình Thuận, mở đài nghe buổi tiếng thơ, thì đúng lúc nghệ sĩ Linh Nhâm đang ngâm bài thơ đó. Sau này ra Bắc ông mới biết, Chúng con chiến đấu… đã sớm được đăng trên báo Nhân Dân và bài thơ hay ra đời trong khung cảnh “Tất cả cho tiền tuyến!” được đón nhận như một của quý hiếm, nhân lên, đi vào lòng quần chúng. Năm 1973, ông được phân công đón tiếp các tù binh chiến tranh trở về ở sân bay Lộc Ninh. Khi người chỉ huy giới thiệu tên ông với những người lính vừa bị địch bắt tù đầy, thì họ ùa đến vây quanh ông. Họ nói rằng, trong nhà tù đảo Phú Quốc, nhờ cái radio bé xíu giấu được, họ đã lén nghe buổi tiếng thơ, bài thơ đó đã tiếp thêm sức mạnh tinh thần cho họ vượt qua được những đòn tra khảo hiểm độc của kẻ thù. Lần khác, về thăm quê Đô Lương, Nghệ An. Khi ông đưa thẻ thương binh mua vé (Ông là thương binh chống Pháp hạng 4/4), thì bất ngờ những người đang xếp hàng dài, mà phần đông từng mặc áo lính, nhận ra ông là tác giả bài thơ đã động viên, khích lệ họ rất nhiều trong cuộc chiến gian khổ, khốc liệt vừa qua. Và theo yêu của họ, một góc bến xe Vinh biến thành “sân khấu”, ông trong bộ quân phục bạc mầu, ba lô con cóc sau lưng, đứng đọc Chúng con chiến đấu… giọng trầm hùng xúc cảm trước hàng trăm khách vãng lai.
|
Có thể nói, văn học Việt Nam hiện đại có hai nhà văn rất ít làm thơ nhưng lại có ngay bài thơ để đời, đó là trường hợp Nguyên Hồng với Cửu Long Giang ta ơi! Và Nam Hà với Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi!
Nhưng văn mới thực sự là tạng của ông, “số phận” của ông. Nam Hà từng tâm sự, thời mới cầm bút và trước khi vào chiến trường, ông rất mê những bộ tiểu thuyết sử thi nước ngoài, như: Chiến tranh và hòa bình, của L.Tôlstôi; Sông Đông êm đềm của M.Sôlôkhôv; Cơn bão táp của I.Erenbua; Một người chân chính của B.Pôlevôi; Những cuộc chiến đấu trên đường Vôlôlamxcơ của Xenkievic…Dạo đó ở ta còn ít tiểu thuyết sử thi về đề tài chiến tranh. Từ buổi đầu, ông đã đinh ninh rằng nhất định mình sẽ viết tiểu thuyết sử thi chiến tranh cách mạng.
Thuở chập chững vào nghề, viết dài ông đã gặp thất bại. Năm 1957 dự trại viết văn trẻ, ông viết về anh bộ đội vừa ra khỏi cuộc chiến, đi xây dựng nông trường quốc doanh. Thế rồi, khi các bạn Hoàng Văn Bổn có Mùa mưa, Phù Thăng có Phá vây… cuốn tiểu thuyết đầu tay Cuộc chiến đấu mới của ông theo giám định của nhà xuất bản, chủ đề thì được, nhưng viết chưa đạt. Chống Mỹ vào giai đoạn ác liệt, các nhà văn mặc áo lính ở ngôi nhà Văn nghệ quân đội số 4 Lý Nam Đế (Hà Nội) lần lượt vào chiến trường, đợt đầu có Nguyễn Ngọc Tấn, Nguyên Ngọc… Rồi Nam Hà, Nguyễn Trọng Oánh. Suốt 10 năm, Nam Hà ở nơi gian khổ, ác liệt nhất là Nam Trung Bộ, Đông Nam Bộ. Ông và Nguyễn Trọng Oánh đi B quá lâu, từng bị “bỏ quên quân hàm”, Nguyễn Trọng Oánh thì phong đại úy… 2 lần. Không mấy nhà văn có được vốn trận mạc như ông. Tham gia ban chỉ huy chống lại trận càn của Mỹ và Đại Hàn vào Bắc Ái (Ninh Thuận) năm 1967; trong đội hình tiểu đoàn 840, Quân khu 6 tổng tấn công Tết Mậu Thân (1968) vào thị xã Phan Thiết (Bình Thuận); đi chiến dịch Nguyễn Huệ trên hướng đường 13 (Sau này được mô tả kỹ lưỡng trong Trận chiến đấu trên đường 13, một tập thuộc bộ tiểu thuyết Đất miền Đông); tham gia giải phóng thị xã Phước Long cuối năm 1974… Ông cũng “đóng” nhiều vai: phái viên mặt trận, trợ lý chính trị, phóng viên chiến trường. Ông còn “nhiễm” tác phong của người chỉ huy quân sự, cũng có phương án tác chiến của riêng mình, nhiều khi tự vẽ bản đồ trận đánh để chiêm nghiệm, có cả la bàn trong túi dết mỗi khi vào trận. Ông thường xung phong đến nơi nóng bỏng nhất, cấp trên sợ có sơ sảy gì với “của hiếm” của mặt trận, cũng có lần hạn chế ông, như chiến dịch Đường 13 năm 1972, trung đoàn chỉ cho phép ông xuống tới sở chỉ huy tiểu đoàn… Không ít lần ông còn tranh luận trực tiếp với người chỉ huy chiến dịch về việc bày binh bố trận sao cho ít tốn xương máu người lính nhất, như lần với sư đoàn trưởng Sư đoàn 7 Lê Nam Phong (trong Đất miền Đông chính là nhân vật sư trưởng Đàm Lê). Gặp tướng Hoàng Cầm, Tư lệnh Quân đoàn 4, người chỉ huy trận đánh cuối cùng ngày 9/4/1975, ông chất vấn: “Tại sao Quân đoàn lại đánh theo cách đó, trong khi có cách đánh khác ít bị tổn thất hơn?”. Tướng Hoàng Cầm có phần bất ngờ, hỏi lại: “Nếu làm tư lệnh đồng chí đánh thế nào?” Nhà văn liền giở sổ tay, lấy trong túi dết ra tấm bản đồ chiến dịch, trình bày cách đánh. Tư lệnh chăm chú nghe, rồi vỗ vai nhà văn bảo: “Này, Nam Hà. Nên nhớ trong chiến tranh không phải lúc nào lý trí cũng thắng được tình cảm. Tôi cũng từng đề xuất cách đánh như đồng chí, nhưng không được cấp trên chấp nhận…”
Đất nước thống nhất, ông cùng một số bạn văn nghệ đi từ rừng ra, da xanh mét vì sốt rét, trong người còn mảnh đạn. Họ đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh người lính, còn sứ mệnh nhà văn? Đây mới là lúc “viết dài” như lời dặn dò của cấp trên dạo nào. Trong đầu đầy ắp ký ức chiến tranh, ông bình tâm ngồi vào bàn viết, trang giấy trắng lóa trước mặt. Có thể trời không cho ông nhiều năng khiếu, ông viết văn khó nhọc như người nông dân cày trên đất ruộng khô cằn. Nhưng bù lại vốn sống ngồn ngộn, cộng với sự cần cù, nhẫn nại, tỉ mỉ trong tích lũy tư liệu; sự dũng cảm, trung thực của người lính khi phơi bày hiện thực của chiến tranh, đã đưa ông trở thành nhà văn quân đội hàng đầu ở nước ta bởi khối lượng tác phẩm đồ sộ, nội dung hoành tráng về cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thời kỳ này, Tổng cục Chính trị có dự án tổng kết hai cuộc chiến tranh giữ nước bằng bộ ký sự lịch sử Trận đánh 30 năm. Nhiều nhà báo quân đội kỳ cựu được triệu tập, Nam Hà là nhà văn duy nhất tham gia Ban Ký sự lịch sử. Thời gian này, ông còn được “bổ sung vốn” bằng những tập hồi ký của tướng tá ngụy, chính khách Mỹ viết về cuộc chiến. Ông dàn dựng tác phẩm hệt như chuẩn bị cho một chiến dịch lớn ngày nào. Để viết Đất miền Đông ông hệ thống tư liệu trong 5 năm trời. Khi sách in ra, bạn văn Nguyễn Khải bảo: Nam Hà khéo thật, cái không đưa được vào Trận đánh 30 năm thì đưa vào Đất miền Đông, trở nên phong phú, đa chiều. Tướng Chín Vinh từng là phó chính ủy Quân giải phóng miền Nam thì có nhận xét riêng về các nhân vật chỉ huy: Tác giả đã nêu được trăn trở, diễn biến tư tưởng của các chỉ huy chiến trường chúng tôi một cách cụ thể, chân xác và sâu sắc. Đó là các tiểu thuyết sử thi: Ngày rất dài (2 tập, 1100 trang) phản ánh cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ giai đoạn 1965-1968; Trong vùng tam giác sắt (2 tập, 850 trang) về chiến tranh đặc biệt 1969-1971; Đất miền Đông (3 tập, 2200 trang) giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh giải phóng.
Vẻ đẹp vùng biển đảo Nam Trung Bộ ngày nay. Ảnh Internet |
Đất miền Đông bộ tiểu thuyết dầy dặn nhất, cũng được tác giả tâm huyết nhất. Tập 1 chủ đề bao quát là phòng ngự và tấn công; tập 2 nội bộ chính quyền Sài Gòn phân hóa; tập 3 trận đánh cuối cùng của các binh đoàn chủ lực, từ Buôn Ma Thuột đến chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Hiện ra một hệ thống nhân vật chính diện, phản diện với nhiều cảnh huống, số phận nằm trong guồng quay nghiệt ngã của chiến tranh. Hầu hết các nhân vật được lấy từ một nguyên mẫu một người hoặc nhiều nguyên mẫu gộp lại, trở thành: tư lệnh Hoàng Việt, sư trưởng Đoàn Lê, trung đoàn trưởng Lê Nhu, chính ủy Phan Nguyên; các chị, các mẹ Ba Hương, Sáu Vân của nội ô Sài Gòn… Có cả những kẻ hèn nhát, phản bội như Hậu, Biên; hoặc dao động như chính ủy trung đoàn Nguyễn Tính, tham mưu phó sư đoàn Hữu Tư. Tác giả dàn dựng tuyến nhân vật phía bên kia, cũng hầu hết là nguyên mẫu, như đại sứ Martin, tướng Xmit, tướng Von Macbot, tướng Lê Minh Đảo, tướng Nguyễn Văn Toàn, chánh xứ Thiết Cương...
Trước sau Nam Hà vẫn là người ghi trung thành “biên bản chiến tranh”. Đúng là văn ông giản dị, mạch lạc quá, đôi khi hóa khô khan, giản đơn, thành ra bộ sử thi chiến tranh được chuẩn bị, dàn dựng công phu là vậy mà sức nặng, sức cuốn hút về văn chương lại không nhiều.
Nhà văn thì lúc nào cũng cần mẫn, tỉnh táo trên bàn viết. Sau này, ông còn cho ra mắt bạn đọc các tiểu thuyết về đề tài xã hội, về người lính thời bình: Dưới những cánh rừng ô rô (năm 2005); Thời hậu chiến (năm 2007). Trận đánh 30 năm ngày càng lùi xa. Cái túi dết theo nhà văn Nam Hà nhiều chiến dịch vẫn còn đó, bạc mầu sương gió bên cạnh những huân chương, giải thưởng. Một đời văn trận mạc, sống và viết được như ông, thực sự có mấy người…
Văn nghệ số 52/ 2016