Trên tuyến quốc lộ 20 đoạn từ Đà Lạt xuôi về Di Linh, có một địa danh gọi là ngã ba Tà Hine, một ngã tẽ khỏi con đường lớn, hun hút dẫn vào sâu thẳm núi rừng. Mỗi lần đi ngang nơi này, đều gợi cho tôi niềm thôi thúc tìm hiểu, khám phá những điều thú vị ẩn chứa trong lòng đại ngàn.
![]() |
Thác Jraiblian, hay còn được gọi với tên thác Bảo Đại. Ảnh: Hoàng Phương |
Và rồi tôi cũng thực hiện được niềm mong ước của mình, trong một chuyến đi khá bất ngờ vào ngày nắng rực rỡ.
Từ ngã ba Tà Hine, xe đưa chúng tôi rẽ vào cung đường Lương Sơn - Đại Ninh thuộc quốc lộ 28B với nhiều đèo dốc gập ghềnh. Con đường được trải nhựa nhưng đã lỗ chỗ theo thời gian, bụi tung mù mịt mỗi khi có xe vượt qua. Tôi được ưu ái ngồi phía trước, nhiều phen thót tim khi thấy chiếc xe đối diện băng băng trên đoạn cua gắt như thể sắp lao vào chúng tôi. Có những khúc quanh, vài nhánh cây bên đường quất vào kính chắn gió, tôi theo phản xạ đưa tay ra đỡ, khiến những người trên xe bật cười nghiêng ngả.
Càng xa ngã ba, nhà cửa phố thị nhộn nhịp dần bỏ lại sau lưng, trước mắt tôi hiện ra hồ Đại Ninh mênh mông khói sóng. Hồ Đại Ninh được hình thành bởi hai con đập Đa Nhim và Đa Queyon, cung cấp nước cho nhà máy thủy điện Đại Ninh, đồng thời chuyển nước từ lưu vực sông Đồng Nai sang lưu vực sông Lũy để cấp nước cho vùng khô hạn rộng lớn của tỉnh Bình Thuận dưới chân đèo. Nước từ hồ chứa được dẫn về nhà máy phát điện bằng đường hầm áp lực dài 11,2km xuyên lòng núi, trước khi có đường hầm thủy điện Thượng Kon Tum thì đây là “đường hầm dẫn nước thủy điện dài nhất Việt Nam”.
Mặt hồ phẳng lặng soi bóng mây trời, hòa vào màu xanh mướt của núi đồi, của rẫy nương trên những triền đất nhấp nhô ven hồ. Thỉnh thoảng có vài con đường đất dẫn xuống lòng hồ, hai bên đường mòn là những triền hoa ngũ sắc cao quá đầu người khoe sắc màu chúm chím, thu hút ong bướm rập rờn bay lượn. Trên đó đầy dấu vết của xe máy cày, đất theo vệt bánh xe cứng lại thành những hình thù kì lạ. Ở vùng đồi núi, máy cày máy kéo là phương tiện đi lại chính của người dân làm nương rẫy, chỉ những chiếc xe này mới có thể băng băng trên đèo cao, hay vượt qua các vũng lầy như chiếc bẫy quấn chặt người qua lại mỗi khi mưa về. Tôi thích nhất là vào vụ thu hoạch, những chiếc xe xình xịch lăn bánh trên đường chở đầy ắp nông sản về xuôi, mang theo nụ cười tươi rói của người nông dân.
Đi hết con đường cong cong uốn lượn, qua cây cầu Đak Ra vắt trên một nhánh của hồ Đại Ninh, là đến địa phận xã Tà Hine. Tuy nhiên, phải lắc lư thêm một đoạn nữa, mới đến lối rẽ vào trung tâm xã. Chiếc cổng chào cao lớn chỉ dấu cho những ai đến đây lần đầu, yên tâm rằng mình đi đúng hướng. Phía sau là cánh rừng thông xanh ngắt ôm trọn con đường trải nhựa thênh thang, khác hẳn đoạn đường gồ ghề trước đó.
Tà Hine cùng với Đà Loan, Ninh Loan, Tà Năng, Đa Quyn là năm xã thuộc vùng Loan, một vùng lõi khó khăn khu vực miền núi của huyện Đức Trọng, tỉnh Lâm Đồng. Tà Hine có hơn 80% dân số là đồng bào Churu và Chill bản địa (một nhánh của dân tộc K’Ho), sống chủ yếu bằng nông nghiệp.
Dọc đường đi, tôi thấy những nếp nhà người Churu bình yên nằm san sát. Họ sống theo dòng họ quần tụ thành làng, chở che đùm bọc lẫn nhau. Những thanh niên trẻ ăn mặc theo người Kinh, riêng người già vẫn giữ đồ truyền thống, phụ nữ mặc váy đen, áo là chiếc khăn màu trắng quấn từ ngực ra sau lưng, vòng qua vai, có những đường chỉ màu óng ánh rủ uống hai ống tay trông rất thích. Đàn ông có người choàng tấm khăn chéo qua người, có người mặc áo dài màu đen, váy trắng, đầu quấn khăn trắng. Khá giống trang phục người Chăm ở vùng giáp ranh Phan Rang, Phan Rí. Được biết vào thế kỉ 19, người Chăm lui về trú ẩn tại vùng đất ven dòng Đạ Nhim, nơi đồng bào Churu, K’Ho, Raglai sinh sống, để tránh thế lực nhà Nguyễn. Do đó, văn hóa Chăm đã ăn sâu vào tâm thức của người Churu cùng những dân tộc khác tại đây, từ nghề làm gốm, dệt thổ cẩm cho đến tập tục, tôn giáo. Trong tập Kỷ yếu của EFEO năm 1905 có thuật lại, các nhà khảo cổ Pháp khi đến khảo sát cổ vật tại hai ngôi đền Sopmadronhay và Kreyo phải đến Phan Rí cậy một công chúa Chăm dẫn đường thì người Churu mới dám mở cửa đền.
Ngồi trong gian phòng trụ sở Ủy ban xã, đưa mắt nhìn các em học sinh dân tộc tan trường nô nức nói cười trên đường, bà Ma Vương Nai Huyền, Phó Chủ tịch xã Tà Hine kể: “Ngày trước, bà con mình chỉ biết trồng lúa, trồng bắp, phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên nên cái nghèo, cái đói bám riết mọi người. Rồi mọi người trồng thêm cây lúa nhưng chưa biết cách nên sản lượng không đủ cung cấp cho người dân. Bà con hái lượm trái thông, khai thác nhựa thông đổi lương thực. Sau này, chính quyền địa phương hướng dẫn, bà con biết trồng cây lâu năm, cây ăn trái, cà phê, tiêu, nhờ đó đời sống dần khấm khá, có của ăn của để.”
Đi khắp các con đường trong xã, đa số đều được bê tông đến tận nhà người dân. Những ngôi nhà tạm bợ khi xưa không còn, thay vào đó là nhà tường, nhà gỗ chắc chắn. Rẫy nương trải dài trên các sườn đồi dệt nên màu xanh no ấm. Kể cho bà Ma Vương Nai Huyền những điều chúng tôi trông thấy, bà hồ hởi cho biết thêm: “Tà Hine đang xây dựng các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, sản xuất rau, củ quả, hoa thương phẩm, có liên kết với các đơn vị tiêu thụ để bảo đảm thu nhập cho người dân. Địa phương vừa trực tiếp hướng dẫn vừa hỗ trợ vay vốn, cho bà con sản xuất, chăn nuôi.”
Thu nhập ổn định, đời sống cải thiện, các em nhỏ được cắp sách đến trường, niềm vui rộn ràng trên từng nếp nhà sơn cước. Thấy chúng tôi đi sâu vào thôn bản, bà con đứng trông theo với nụ cười rạng rỡ thay lời chào khách phương xa. Tôi nhớ lại tấm biển trên chiếc cổng chào lúc đi vào “Xã Tà Hine - xã đạt chuẩn nông thôn mới”, như một lời chào và là niềm tự hào của người dân bao đời sinh sống trên mảnh đất này.
Trước khi đến Tà Hine, tôi được nghe nhiều về văn hóa của đồng bào Churu. Khi gặp Già làng Yang Jiong, ông cho biết, người Churu thờ đa thần, tất cả những việc lớn trong đời sống như thu hoạch mùa màng, dựng nhà cửa, đám cưới, đám ma… đều cúng. Trong dịp lễ hội, các chàng trai thường biểu diễn cồng chiêng, các cô gái múa điệu Tamya Arya hòa nhịp cùng tiếng trống, tiếng cồng, tiếng khèn bầu dìu dặt. Việc bảo tồn bản sắc văn hóa được chính quyền và người dân ý thức giữ gìn. Người già dạy người trẻ các điệu múa, cách đánh chiêng thổi khèn để những sinh hoạt dân gian không bị mai một theo hơi thở của nhịp sống hiện đại.
Ông tự hào chỉ cho chúng tôi nhà văn hóa Tà Hine nằm trên trục đường chính đi vào xã, trong khuôn viên rộng thoáng, có lối kiến trúc theo kiểu nhà rông, được xây dựng để duy trì các sinh hoạt cộng đồng nhằm bảo tồn các giá trị văn hóa lâu đời. Tiếc là thời điểm chúng tôi đến, không trùng dịp lễ hội để được thưởng lãm không gian văn hóa đặc sắc đó.
![]() |
Sinh hoạt cộng đồng tại Nhà văn hóa Tà Hine. Nguồn ảnh: Lamdongtv. |
Rời nhà văn hóa, chúng tôi đến nhà thờ Tà Hine, một công trình tôn giáo trọng điểm của địa phương. Giáo xứ nằm trên ngọn đồi cao, xuyên qua vườn tược của người dân, khó nhìn ra lối rẽ từ đường lớn. Dù trước đó đã được chỉ đường, chúng tôi vẫn đi lố. Vòng vèo một hồi, gặp người đàn ông Churu địu con đứng trước hiên nhà, tôi vào hỏi thăm thì được ông tận tình hướng dẫn. Theo tay ông chỉ, mái ngói đỏ thẫm của ngôi giáo đường nổi bật giữa màu xanh núi đồi. Em bé phía sau chiếc địu thấy chúng tôi thì giương đôi mắt đen tròn lén nhìn với sự tò mò lẫn ngại ngùng. Đôi mắt trong veo ấy mãi theo tôi suốt chặng đường nơi miền sơn cước.
Lúc chúng tôi đến là giữa trưa, nắng vàng ươm càng làm nổi bật màu sắc của nhà thờ. Tôi thật sự ấn tượng với kiến trúc của ngôi thánh đường, theo lối nhà sàn của đồng bào Tây Nguyên. Mái ngói màu đỏ tươi, tường gạch gồm hai sắc đỏ đan xen một cách nghệ thuật, màu gạch son xen kẽ với màu gạch cháy. Trên cao là bức tượng chúa Giêsu mặc áo truyền thống của người Churu. Cha Giuse Nguyễn Cao Nguyên, người gắn bó lâu năm với vùng đất này, cho biết người Churu ở Tà Hine là những con chiên ngoan đạo. Suốt 60 năm đón nhận đức tin, họ chưa có ngôi nhà thờ nào mang hồn dân tộc mình, nên khi bắt đầu xây dựng vào năm 2015, chính cha đã lên ý tưởng để xây ngôi thánh đường mang bản sắc văn hóa Churu dành cho bà con.
Cha giải thích thêm, hai màu gạch tượng trưng cho hai màu da của người Kinh và người Churu sống trong cùng xứ đạo, gần gũi gắn bó với nhau. Các bức tường bên trong, phía dưới xây gạch, bên trên ốp gỗ, tượng trưng cho những bước chân trần của người Churu sống giữa núi rừng. Ở gian Cung Thánh, tượng Đức Maria và Thánh Giuse làm bằng gỗ có gương mặt và trang phục giống người Churu, mang gùi địu con. Đó là cách để người dân thấy gần gũi và động viên họ giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc mình. Điều đặc biệt là các bản kinh đọc hàng ngày đều được dịch ra tiếng Churu, bộ lễ cũng đang được biên dịch để áp dụng. Các giáo dân không chỉ đến nhà thờ vào giờ lễ, mà có thể đến bất cứ lúc nào, như ngôi nhà chung của mọi người.
Phía bên ngoài nhà thờ, tôi thấy có nhiều em nhỏ chơi đùa, tưởng các em đến học giáo lí, hỏi thăm thì các em cười lỏn lẻn, đến chơi thôi. Rảo bước một hồi, tôi gặp hai phụ nữ Churu đang nấu cơm bên dãy nhà phụ cạnh lễ đường. Họ là giáo dân, hằng ngày đến làm công việc cho giáo xứ, hoặc đến đọc kinh. Chị tên Ma Grét nói, ở đây như ở nhà của mình, cứ rảnh là đến. Hai chị nhiệt tình mời chúng tôi ăn cơm. Thấy đã muộn, chúng tôi xin phép rời đi, vừa kịp nghe tiếng chuông trên tháp gõ từng hồi vang vọng.
Tà Hine còn có một thắng cảnh chưa được nhiều người biết đến, là thác Bảo Đại. Xung quanh thác toàn cây rừng, dọc lối đi được trồng thêm cây cảnh khá đẹp nhưng lâu không chăm chút, cỏ chen lấn mọc lên. Nơi đây từng được một công ty du lịch đầu tư nhưng có lẽ vắng khách nên không duy trì mà mở cửa tự do. Thấy ba thanh niên đang hái tổ ong trên cây đa cổ thụ, tôi hỏi thăm thì được chỉ đường xuống thác. Rêu xanh phủ kín lối đi, sờ tay vào cảm giác êm mượt như nhung. Tiếng nước càng gần. Ngọn thác trắng xóa hiện ra trước mắt. Dải nước từ trên cao mạnh mẽ đổ xuống, tung bọt nước cùng hơi sương mờ mịt. Dưới thác, nhiều hòn đá to xếp chồng hoặc nằm gối đầu lên nhau, trên mỗi phiến rêu mọc xanh um, tô thêm vẻ hoang sơ ma mị. Men theo ngách nhỏ giữa hai khe núi, tôi lần lên phía trên cao để ngắm toàn cảnh. Đường đi chật hẹp, có đoạn phải lách người mới lọt qua, nhiều rễ cây bám vào vách núi, như những con bạch tuộc khổng lồ. Xung quanh tịnh không một bóng người, chỉ có tiếng nước dội vào bờ đá, tiếng chim rừng líu lo, tiếng lá xạc xào, thỉnh thoảng thêm tiếng vụn vỡ giòn tan khi tôi đạp phải cành cây khô. Đứng trên cao ngắm toàn cảnh, dòng suối gom nước từ phía trên róc rách chảy, lúc đến vực, liền đổi dòng ầm ào trút xuống, từ êm đềm thành dữ dội, từ hiền hòa thành hung hãn.
Thác có tên Bảo Đại bởi vì ngày trước, vua Bảo Đại thường đi săn bắn, ông cùng đoàn tùy tùng ghé qua nên người dân tôn kính gọi theo tên ông. Người Churu thì gọi là Jraiblian, nghĩa là thác Đá Cao. Dù tên gì đi nữa, đây cũng là một điểm đến thú vị cho những ai thích vẻ hoang sơ của núi rừng. Ngọn Jraiblian gợi tôi nhớ đến thác Pongour nằm phía bên kia quốc lộ 20, cũng là một nơi vua Bảo Đại dừng chân mỗi chuyến săn bắn. Hay thác Phi Liêng hùng vĩ chưa được đánh thức ở đại ngàn Đam Rông. Những ngọn thác này, cùng với đặc trưng văn hóa bản địa của người đồng bào, hứa hẹn mở ra nhiều cơ hội du lịch sinh thái, du lịch cộng đồng.
Rời thác, chúng tôi quay về. Trên đường, thấy hai vợ chồng già người Churu lùa đàn bò, con nào cũng núc ních sau một ngày ăn no, chúng tôi dừng xe đợi đàn bò đi qua. Ông bà nở nụ cười tươi trên gương mặt đen sạm thay lời cảm ơn, nói bằng giọng trọ trẹ: “Mấy con bò không nghe lời, kêu nó nhường đường mà nó cứ đi.” Tôi bật cười vẫy tay tạm biệt ông bà, cảm thấy cuộc sống ở đây giản đơn và bình yên quá đỗi.
Trời ngả về chiều, núi đồi nhuộm màu đỏ lựng. Chúng tôi rời Tà Hine, thầm hẹn sẽ quay trở lại vào dịp lễ hội cầu mưa, lễ mừng lúa mới hay hội mừng được mùa… để thưởng thức nét văn hóa độc đáo giữa núi rừng nguyên sơ.