Sự kiện & Bình luận

Tân Cương thanh bình

Tạ Ngọc Tấn
Bút ký phóng sự
06:00 | 29/01/2025
Baovannghe.vn- …Tân Cương là cách gọi thông thường cho nhanh gọn, thực ra tên chính thức của vùng đất này trong hệ thống hành chính nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương.
aa

Nhìn trên bản đồ, nước Trung Quốc trông gần giống như một chiếc khánh cong lên ở hai cánh. Cánh phía đông của chiếc khánh hơi chếch lên phía bắc một chút là các tỉnh Liêu Ninh, Cát Lâm, Hắc Long Giang và một phần của Khu tự trị Nội Mông. Đối diện phía bên kia hơi thấp xuống phía nam một chút, cánh tây của chiếc khánh là Tân Cương. Từ Bắc Kinh đi Urumqi, thủ phủ của Tân Cương, chuyến bay của chúng tôi mất gần trọn 4 giờ đồng hồ chưa kể thời gian lăn bánh từ nơi đỗ ra đường băng và ngược lại. Thế cũng là tuyệt vời rồi, bởi vì nếu đi đường bộ theo cao tốc Kinh Tân (Bắc Kinh - Tân Cương) tức G7, dài 2.822 cây số, rẻ ra cũng phải mất đến 3 ngày chạy xe ô tô.

Tân Cương thanh bình
Hồ Thiên Trì được ví với tiên cảnh trần gian. Nguồn ảnh: Kltravel

TÂN CƯƠNG - VÙNG ĐẤT CỦA NHỮNG KỶ LỤC

Đường tuy xa nhưng bù lại có những người bạn rất thông thuộc về Tân Cương. Và câu chuyện về Tân Cương cứ rỉ rả theo suốt hành trình chuyến bay mang ký hiệu CZ.6902 của Hãng hàng không Nam Phương.

…Tân Cương là cách gọi thông thường cho nhanh gọn, thực ra tên chính thức của vùng đất này trong hệ thống hành chính nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa là Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương. Tên gọi Tân Cương, nghĩa là “biên cương mới”, xuất hiện dưới thời nhà Thanh. Trước khi mang tên Tân Cương, vùng đất này thường được gọi chung là Tây Vực và đã được thay đổi với nhiều tên gọi khác nhau trong suốt hơn 2.000 năm lịch sử thành văn.

Người Tân Cương vẫn tự hào rằng, vùng đất này có nhiều kỷ lục ở Trung Quốc. Trước hết, Tân Cương giữ kỷ lục về diện tích trong tổng số 31 đơn vị hành chính trực thuộc trung ương của Trung Quốc, với 1,66 triệu cây số vuông, gần bằng 1/6 diện tích cả nước Trung Quốc và lớn gấp 3 lần nước Pháp, nước có diện tích lớn nhất Liên minh châu Âu. Tân Cương là nơi giữ kỷ lục của Trung Quốc về sự đa dạng của địa hình, địa mạo, từ đồng bằng, cao nguyên mênh mông, bát ngát, đến núi cao quanh năm tuyết phủ, vực sâu thăm thẳm, rừng nguyên sinh rậm rạp, sa mạc khô cằn cát nóng. Nói đến núi, tức là nói đến thứ “đặc sản” thiên nhiên dễ nhận thấy nhất ở đây, nơi mà ba bên bốn bề, ở đâu cũng có thể nhìn thấy núi, mà toàn những núi to lớn, hùng vĩ. Nằm chắn ngang giữa Tân Cương theo hướng đông - tây là dãy núi Thiên Sơn, chia vùng đất này thành hai bồn địa lớn, phía nam là bồn địa Tarim và phía bắc là bồn địa Dzungarian. Dãy núi Altai chập chùng trấn ải phía bắc; dãy Pamia hùng vĩ nằm ở phía tây, và dãy núi Côn Luân hiểm trở bao bọc từ phía nam, tiếp nối với khu vực Tây Tạng. Tân Cương có nhiều đỉnh núi cao, trong đó đỉnh núi cao nhất nằm trên biên giới với Pakistan, lên đến 8.611 mét, nhưng vẫn thấp hơn gần 240 mét so với đỉnh Everest cao 8.848,86 mét, nơi được mệnh danh là “Nóc nhà thế giới” hay theo cách gọi của người Tây Tạng là Chô Mô Lung Ma, nghĩa là “Thánh mẫu của vũ trụ”. Không có đỉnh núi cao nhất như ở Tây Tạng, nhưng Tân Cương lại có địa điểm thấp nhất mặt đất trên lãnh thổ Trung Quốc, dưới mực nước biển 155 mét. Đó là khu vực Turpan, còn gọi là Thổ Lỗ Phồn, nơi có thành cổ Cao Xương từng ghi dấu chân của nhà sư Huyền Trang Đường Tam Tạng trên đường đi Ấn Độ thỉnh kinh.

Tân Cương là vùng đất có khí hậu đa dạng bậc nhất lục địa Trung Quốc, từ mùa đông vĩnh cửu trên những đỉnh núi quanh năm tuyết phủ, đến vùng khí hậu ôn hòa, lượng mưa lớn tưới tắm cho cây cỏ xanh tốt quanh năm. Và nơi có khí hậu khắc nghiệt bậc nhất, sa mạc Taklamakan mênh mông cát bụi, mùa đông có lúc xuống dưới âm 20 độ C, nhưng mùa hè nóng lên đến trên 50 độ C. Đây cũng là nơi được thiên nhiên ban tặng nguồn tài nguyên giàu có, trong đó, trữ lượng dầu mỏ và khí đất thiên nhiên của Tân Cương nhiều nhất Trung Quốc.

Tân Cương thanh bình
Mỹ nhân Địch Lệ Nhiệt Ba thể hiện vũ điệu Tân Cương. Nguồn ảnh: Sina

Nếu giữa các địa phương về số lượng các quốc gia có chung biên giới, Tân Cương giữ kỷ lục của Trung Quốc với con số 8. Tân Cương có biên giới với các nước Mông Cổ về phía đông-bắc; với Nga về phía bắc; với Kazakhstan về phía tây-bắc. Phía tây Tân Cương là khu vực biên giới với các nước Kyrgyzstan, Tajikistan, Afghanistan, Pakistan và phía tây-nam là Ấn Độ. Đặc biệt, Tân Cương là cửa ngõ duy nhất nơi con đường tơ lụa trên bộ vượt ra khỏi lãnh thổ Trung Quốc để mở ra với thế giới, vươn đến tận Xanh Peterburg ở phía bắc và Roma của đế quốc La Mã và nhiều thành phố khác ở phía nam châu Âu.

Có lẽ cũng bởi là nơi ngã ba, ngã bảy giữa trung tâm lục địa châu Á nên Tân Cương đã trở thành vùng đất đa dạng văn hóa vào bậc nhất của Trung Quốc và cả thế giới. Ở đây có đến 56 dân tộc quần tụ, sinh sống, bảo tồn và chia sẻ với nhau những giá trị văn hóa tốt đẹp. Trên một đường phố, người ta có thể nhìn thấy nhiều thứ y phục, nghe thấy nhiều thứ tiếng nói của các dân tộc bản địa khác nhau. Trong hành trình một ngày đường, người ta có thế nhìn thấy nhiều dấu tích văn hóa của những dân tộc khác nhau vẫn còn lưu lại đâu đó ở kiến trúc, biểu tượng, hoa văn trang trí, tập quán sinh hoạt nơi những thôn, làng, khu dân cư. Và sẽ là chưa đủ nếu chưa nói đến nét đẹp rất riêng của phụ nữ Tân Cương, những người có sống mũi cao, màu mắt phớt nâu và khuôn mặt thanh tú. Chính nơi đây là quê hương những người đẹp, những minh tinh màn bạc nổi tiếng của Trung Quốc.

Trong lịch sử, thành phố thủ phủ của Tân Cương có tên là Tihwa hay Dihua, nay mang tên chính thức trên bản đồ hành chính Trung quốc là Urumqi còn gọi là Ô Lỗ Mộc Tề theo phiên âm tiếng Hán - Việt. Đây là một thành phố cách xa biển nhất thế giới, nhưng cũng là một trong số thành phố phát triển nhanh nhất thế giới, trở thành thành phố lớn nhất trong vòng bán kính 150 cây số. Tên gọi Urumqi bắt nguồn từ tiếng Mông Cổ nghĩa là “Cánh đồng tươi đẹp”. Người bạn đồng hành mới của tôi là dân bản địa bảo rằng, Urumqi đúng là “Cánh đồng tươi đẹp” theo nghĩa đen đầy đủ của ngôn từ. Quả vậy, thành phố nằm ngay dưới chân núi phía đông bắc của dãy Thiên Sơn, hưởng trọn cả vẻ đẹp của thiên nhiên hùng vĩ, núi rừng xanh tươi, thảo nguyên bát ngát, đồng ruộng phì nhiêu màu mỡ. Theo con đường trên cao từ sân bay về khách sạn, đã thấy sắc tím với với màu tuyết trắng bạc phủ trên những đỉnh núi xa mờ của dãy núi Thiên Sơn nổi lên trên đường chân trời. Chỉ ra khỏi thành phố nửa giờ đi ô tô về phía nam đã có thể bắt gặp những cánh rừng, thảm cỏ xanh tươi, những khu du lịch nghỉ dưỡng đẹp hút hồn trên núi cao. Đi thêm khoảng chưa đến giờ chạy xe nữa sẽ gặp khung cảnh tráng lệ của hồ Thiên Trì, nước trong vắt giữa những ngọn núi phủ tuyết bao quanh, ngỡ tưởng phong cảnh trên Thiên đường. Ngược về phía bắc, nơi có địa hình thấp dần, đã là những cánh đồng màu mỡ, phì nhiêu, những khu dân cư trù phú. Nhất là những vườn cây ăn trái xum xuê quả ngọt trĩu cành.

Trong buổi tiếp chúng tôi, đồng chí lãnh đạo Đảng ủy Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương nói rằng: “Tân Cương ở xa Việt Nam cả nhiều nghìn cây số nhưng chúng ta rất gần gũi với nhau vì tình người, tình đồng chí. Hơn nữa, với Tân Cương, các đồng chí là người thân, mà đã là người thân thì bao giờ chúng ta cũng giành cho nhau những điều tốt đẹp nhất!” Quả thật, những ngày ở Tân Cương, chúng tôi càng nhận rõ một điều rằng, nếu bạn đã coi ai là người thân thì sẽ dành cho người đó sự đón tiếp thân tình và nồng hậu hơn cả sự tưởng tượng theo cách nghĩ thông thường.

Y LÊ - XỨ SỞ THIÊN MÃ

Từ Urumqi chúng tôi đáp chuyến bay CZ 6854 đi Y Lê. Cả hành trình hướng về phía tây, tàu bay đều bay dọc theo sườn phía bắc dãy Thiên Sơn. Suốt hơn một giờ bay, dẫy Thiên Sơn chầm chậm trôi đi không dứt dưới cửa sổ tàu bay. Những ngọn núi phủ tuyết nối tiếp nhau trùng trùng, điệp điệp, có lúc tưởng như đang bồng bềnh trôi trong mây. Ánh nắng chiều tà chiếu sáng lấp lóa trên tuyết trắng phau phau, thi thoảng lóe lên những tia sáng lấp lánh như hào quang. Không gian mênh mang màu sắc huyền thoại, cảnh sắc đẹp đến nao lòng. Chẳng thế mà năm 1959, trên đường từ Liên Xô về nước, Bác Hồ ghé thăm Tân Cương, rung cảm trước vẻ đẹp của Thiên Sơn đã viết bài thơ chữ Hán Vọng Thiên Sơn:

Dao vọng Thiên

San phong cảnh hảo,

Tử hà, bạch tuyết bão thanh san.

Triêu dương sơ xuất xích như hoả,

Vạn đạo hào quang chiếu thế gian.

Dịch thơ:

Xa ngắm Thiên San phong cảnh đẹp,

Ráng đào, tuyết trắng ấp non lam,

Mặt trời mới mọc đỏ như lửa,

Muôn ánh hồng soi khắp thế gian1.

Sách cũ Hán thư kể lại rằng, vào cuối thế kỷ thứ II trước Công nguyên, một lần sứ giả nhà Hán được cử đến nước Đại Uyển, quốc gia đứng chân một phần trên đất Y Lê ngày nay kéo dài đến vùng núi Pamia, để mua đổi ngựa quý. Triều đình Đại Uyển không những không bán đổi ngựa mà còn sỉ nhục sứ giả. Tin truyền về đến Trường An, Hán Vũ Đế nổi giận, lệnh cho đại tướng Lý Quảng Lợi xuất quân đi chinh phục Đại Uyển. Năm 102 TCN, Lý Quảng Lợi thống lĩnh đại quân tây chinh lần đầu đại bại, quân lính mười phần chết đến tám, chín, bèn lui về giữ thành Đôn Hoàng và dâng biểu xin triều đình bãi binh. Hán Vũ Đế giận giữ tuyên chỉ: “Tướng bại trận bước vào Ngọc Môn Quan, chém đầu!”, rồi ra lệnh cho Lý Quảng Lợi dốc toàn lực xuất quân chinh phạt một lần nữa. Ngay trong năm sau, năm 101 TCN, đại tướng Lý Quảng Lợi thống lĩnh 6 vạn quân cùng lực lượng vận chuyển lương thảo hùng hậu, tiến về phía tây, vây hãm thành trì, đánh bại quân Đại Uyển, buộc phải dâng tặng “ngựa quý hàng chục con, ngựa tốt hàng ngàn con”.

Vẫn biết, đại quân nhà Hán vượt qua hàng vạn dặm đường với bao thử thách của núi non hiểm trở, sa mạc khát bỏng, khí hậu khắc nghiệt, thiệt hại bao nhiêu nhân lực, tốn kém bao nhiêu tài lực, vật lực, đâu phải chỉ vì “chục con ngựa quý, ngàn con ngựa tốt”. Lý do chính của cuộc chinh phạt đó có lẽ phải là sức hấp dẫn của một vùng đất được thiên nhiên ưu đãi mọi thứ tốt đẹp, từ sự phì nhiêu màu mỡ của đất đai, sự thuận hòa của khí hậu, sự giàu có, phong phú về sản vật và cả cảnh sắc mỹ lệ của núi non, sông hồ và thảo nguyên. Nhưng đoan chắc một điều rằng, từ hơn hai ngàn năm trước, vùng đất này đã nổi tiếng là nơi sản sinh ra giống ngựa quý. Đó là giống ngựa ngày nay được người Y Lê gọi là thiên mã và rất tự hào là quê hương thiên mã. Hầu như trên bất cứ chặng đường nào trên vùng đất châu Y Lê cũng bắt gặp những hình ảnh tượng trưng về ngựa, từ tranh ngựa trên các biển hiệu, tượng ngựa trên các tượng đài, trên những công trình công cộng, đến hình tượng ngựa được cách điệu đặt trên mái nhà, trên đầu cột điện chiếu sáng và cơ man nào là tượng ngựa với đủ các kiểu, đủ các phong cách khác nhau bày bán trong các cửa hàng lưu niệm.

Thực ra, những gì liên quan đến ngựa đã là một nét văn hóa rất riêng, một truyền thống từ lâu đời của Y Lê. Đã có những đại cảnh phim thực hiện ở Y Lê với hàng nghìn con ngựa phi trên thảo nguyên mênh mông. Bây giờ đây, ở Y Lê có cả một Khu văn hóa Thiên Mã, nơi chăn nuôi những giống ngựa quý và tổ chức các chương trình biểu diễn xiếc ngựa. Khán đài xem biểu diễn xiếc ngựa ngoài trời khá rộng lớn, có thể chứa đến cả nghìn người xem. Những nam, nữ diễn viên biểu diễn vừa phi ngựa như bay, vừa nhào lộn hay đứng phất cờ trên lưng ngựa, dạng chân đứng trên lưng hai con ngựa đang phi hoặc cưỡi ngựa bắn cung, v.v.. Người xem thỉnh thoảng lại bật kêu lên trước những pha biểu diễn mạo hiểm của các nghệ sĩ.

Chúng tôi đã đi trên những con đường của vùng đất Y Lê, từ Y Ninh đến thành phố Chiêu Tô, qua Hạ Thả, khu văn hóa Thiên Mã, trở về Y Ninh, đến cửa khẩu quốc tế Horgos, khu phố dân tộc Kazanqi… Những chặng đường cho chúng tôi cảm nhận như được xem một bộ phim sinh động về cảnh quan, con người và những đặc sắc văn hóa của vùng đất Y Lê. Những cánh đồng rộng hút tầm mắt với màu xanh mơn mởn của ngô khoai, rau màu; sắc vàng rơm của lúa mì, lúa mạch đang mùa thu hoạch; màu tím lãng mạn và mê hoặc của hoa oải hương (lavender). Con đường cổ Hạ Thả uốn lượn quanh co giữa núi non hùng vĩ với những vạt rừng cây lá kim đẹp hút hồn và luôn song hành với một dòng sông màu sữa nhận nước từ tuyết tan trên các đỉnh núi của dãy Thiên Sơn. Những đàn gia súc gặm cỏ thong dong trên thảo nguyên xanh bát ngát trải rộng mãi đến những triền núi xanh lam mờ xa. Thỉnh thoảng bắt gặp những thị trấn, làng mạc, trang trại với nhà xây, mái ngói của người Hán, người Duy Ngô Nhĩ xen lẫn những nhà lều tròn đặc trưng truyền thống của người Kazakhstan. Đôi khi bắt gặp những trang trại cô lẻ đầy chất lãng mạn trên thảo nguyên. Từ vùng đồi đá trơ cằn với những vách đá lởm chởm, qua hầm chui Takeshi dài hun hút bỗng mở ra một thế giới mới lạ với đồng ruộng phì nhiêu, màu xanh bát ngát của cây cỏ và những khu dân cư trù phú. Thành phố Horgos, cửa ngõ của của con đường tơ lụa hiện đại, kết nối Trung Quốc với thế giới bên ngoài, đến tận những thành phố xa xôi của châu Âu.

Châu Y Lê rộng đến trên 55.000 cây số vuông, có 8 huyện, 3 thành phố trực thuộc với hơn 3 triệu dân nhưng tập hợp hàng mấy chục dân tộc khác nhau, từ người Hán, người Kazakh, người Duy Ngô Nhĩ, người Hồi Hột, người Nga, người Kyrgiz, v.v.. Nếu như nói Y Lê là ngôi nhà chung của các dân tộc, có lẽ điều đó dễ nhận thấy nhất ở Khu phố văn hóa dân tộc Kazanqi và khu phố Lục Tinh.

Khu phố văn hóa dân tộc Kazanqi rộng 23 cây số vuông, nơi có 20 nghìn hộ gia đình với 120 nghìn người sinh sống. Nhìn vào kiến trúc, các hoa văn trang trí, cách bài trí bên ngoài, có thể nhận thấy chủ nhân của các ngôi nhà ở đây là người của nhiều dân tộc khác nhau. Xong mọi ngôi nhà ở Kazanqi đều sơn toàn bộ hay ít ra cũng có những mảng màu xanh da trời, màu sắc biểu tượng đặc trưng của Y Lê. Và du khách đông nườm nượp. Qua trang phục, người ta có thể nhận thấy người của những dân tộc khác nhau. Xe điện, xe ngựa chở người nhiều khi phải dừng lại chờ hoặc len lách giữa dòng người đi bộ lũ lượt, ồn ào.

KASHI - VIÊN NGỌC QUÝ CỦA TÂN CƯƠNG

Nếu Y Lê là vùng đất màu mỡ với những cánh đồng bát ngát, thảo nguyên mênh mông thì địa khu Kashi (phiên âm tiếng Hán - Việt là Khách Thập) là vùng đất khô cằn, khí hậu khắc nghiệt. Địa khu rộng đến 112 nghìn cây số vuông nhưng chỉ có xấp xỉ 4,5 triệu dân, trong đó nửa triệu người ở thành phố thủ phủ. Ở độ cao 1.280 mét so với mực nước biển, cách Urumqi hơn 1.500 cây số, Kashi được bao bọc bởi ba bề là núi - dãy Pamir ở phía tây, dãy Thiên Sơn về phía bắc và dãy Côn Luân từ phía nam. Phía đông của thành phố đã cận kề với sa mạc Taklamakan, nhận đủ mọi thử thách của vùng cát khô khốc rộng đến gần 300 ngàn cây số vuông, mùa đông xuống đến dưới âm 20 độ C, mùa hè nóng lên đến trên 50 độ C, thậm chí có nơi lên đến 70-80 độ C như vùng Hỏa Diệm Sơn.

Chúng tôi đến thủ phủ của địa khu Kashi, thành phố mang chính tên của địa khu, khi tiết trời đã chuyển sang thu nhưng chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm vẫn rất lớn. Đêm ở đây đã lành lạnh mà ngày còn nắng nóng chói gắt, cảm giác như có hơi lửa phả vào mặt khi đi dưới ánh nắng ban trưa. Mặc dù điều kiện khí hậu rất khắc nghiệt nhưng ở Kashi vẫn tràn ngập màu xanh của cỏ cây, hoa lá. Để giữ được màu xanh như thế phải công phu lắm, phải khắc nhiều khó khăn, thiếu thốn lắm. Cái thiếu đầu tiên ở đây chính là nước. Như một ốc đảo ở rìa phía tây sa mạc Taklamakan, nhưng lượng mưa vùng đất này mỗi năm cũng chỉ xấp xỉ 60 ly, đến nước cho người còn thiếu huống chi nước cho cây cỏ.

Lâu nay, nguồn cung cấp nước chủ yếu cho thành phố và cả địa khu Kashi là dòng sông Băng Xuyên bắt nguồn từ dãy núi Pamia, nhưng không đủ để làm thỏa mãn cơn khát của vùng đất này. Vì thế, nhà nước trung ương đã phải hỗ trợ xây một đường ống dài hơn 100 cây số, dẫn nước từ phía tây, bổ sung nguồn nước cho địa phương. Có nước rồi phải lo cách sử dụng cho tiết kiệm, tưới tắm cho hiệu quả, vậy nên phương pháp tưới nhỏ giọt đã thành phổ biến. Cũng phải chọn giống cây trồng cho phù hợp. Có lẽ tự nhiên đã gợi ý cho cách lựa chọn, thậm chí thiên nhiên ở đây đã tự lựa chọn cho mình những giống cây thích hợp. Để có thể sống trong điều kiện hạn hán khô kiệt ở đây, cây bạch dương có bộ rễ rất phát triển, cắm sâu vào lòng đất để hút nước nuôi cây. Người ta bảo, cây bạch dương cao bao nhiêu thì bộ rễ của nó cũng cắm sâu xuống đất với kích thước như thế.

Đặc biệt, loài cây hồ dương được coi là cây ưu việt của Kashi, một loài cây có sức sống vô cùng mãnh liệt. Cây hồ dương có thể mọc trên sa mạc trong điều kiện khô hạn và chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm rất cao. Ngay cả khi hồ dương chết đi rồi, thân cây vẫn không bị mục nát. Để có thể sống cả ngàn năm trên sa mạc, cây hồ dương tự tạo cho mình lớp vỏ cây dày, thô ráp. Lá hồ dương biến đổi theo mùa, xanh về mùa xuân, mùa hè, rồi chuyển sang màu đỏ, màu vàng vào mùa thu và rụng vào mùa đông. Do phải chống chịu sương gió, thời tiết khắc nghiệt mà những cây hồ dương lâu năm thường có hình thù kỳ lạ mang vẻ đẹp bất ngờ. Về mùa thu, khi lá hồ dương chuyển từ màu đỏ sang màu vàng, những vạt rừng hồ dương như được dát vàng, rực rỡ trong nắng, tạo nên vẻ đẹp say đắm lòng người.

Sinh sống trong điều kiện khắc nghiệt của vùng đất này nhưng người dân Kashi, nhất là người Duy Ngô Nhĩ chiếm đến hơn 90% dân số của địa khu, mang một vẻ đẹp riêng có. Sắc đẹp của phụ nữ Duy Ngô Nhĩ đã từng nổi tiếng trong lịch sử. Không ai đến Kashi mà có thể bỏ qua câu chuyện về một người đẹp Duy Ngô Nhĩ tên là Iparhan trở thành một phi tử của Hoàng đế Càn Long nhà Thanh. Chuyện xưa kể rằng, Iparhan không chỉ là một mỹ nhân tuyệt sắc mà cơ thể nàng còn luôn tỏa ra hương thơm ngào ngạt. Bởi thế mà nàng còn có tên là Hàm Hương công chúa, được Hoàng đế Càn Long phong là Hương Phi và được sủng ái nhất trong số hàng trăm mỹ nữ cung tần. Là phi tần của Hoàng Đế sống trong cung điện nhà Thanh song Hương Phi được tự do duy trì lối sống của người Duy Ngô Nhĩ theo đạo Hồi, từ trang phục, thức ăn đến những nghi lễ tôn giáo. Đặc biệt, khi Hương Phi qua đời, Càn Long đã giữ lời hứa sẽ chôn cất nàng ở quê nhà, nên đã phái 120 lính ngự lâm, lặn lội trong nắng lửa, tuyết lạnh, vượt qua hàng ngàn dặm đường với bao khó khăn, gian khổ dòng dã suốt 3 năm trời để để hộ tống linh xa, đưa thi thể nàng về an táng tại khu lăng mộ dòng họ Apakhhoja ở quê hương Tân Cương. Được xây dựng từ giữa thế kỷ XVII, trải qua gần 400 năm nắng mưa, sương gió với bao nhiêu biến động xã hội, khu lăng mộ Apakhhoja ở ngoại ô thành phố Kashi vẫn giữ được hầu như vẹn nguyên dáng vẻ uy nghi, bề thế của một công trình kiến trúc lăng tẩm mang đậm những nét đặc trưng của văn hóa Hồi giáo. Hằng ngày, rất nhiều du khách vẫn đến viếng mộ Hương Phi, lắng nghe câu chuyện nhuốm màu sắc huyền bí về một tuyệt thế giai nhân Duy Ngô Nhĩ, người đã chiếm trọn tình yêu say đắm của Ái Tân Giác La Hoằng Lịch, một vị Hoàng đế tài năng bậc nhất triều đại nhà Thanh, mà mang nặng tình yêu thủy chung son sắt với quê hương xứ sở!

Ở Kashi, múa và hát là đặc sản văn hóa nổi tiếng. Có lẽ trong điều kiện thiên nhiên đầy khắc nghiệt, chính múa và hát là thứ giúp cho con người ở đây lạc quan, vượt lên khó khăn, thách thức mà tạo lập cuộc sống. Vì thế, người dân ở đây truyền tụng câu cách ngôn: “Ai biết nói thì cũng biết hát, ai biết đi thì cũng biết nhảy múa.” Khỏi phải nói những điệu múa dân gian của Kashi với vũ điệu mạnh mẽ nhưng rất uyển chuyển, nhịp điệu nhanh nhưng rất nhịp nhàng, động tác rất dứt khoát nhưng vẫn mềm mại, uyển chuyển. Trang phục với màu sắc sặc sỡ, được phối màu rất khéo, làm cho động tác xoay tròn của các vũ nữ tạo nên những khuôn hình đầy quyến rũ. Những điệu múa ấy được biểu diễn trong tiếng nhạc của những nhạc cụ truyền thống mang đậm bản sắc của thiên nhiên, con người Kashi. Tiếng du dương của các loại đàn, sáo, được cầm nhịp bởi tiếng trống cầm tay sôi động, đưa người ta qua những những cung bậc cảm xúc khác nhau, từ khung cảnh bao la của sa mạc, tiếng ngựa phi trên thảo nguyên bát ngát, đến những đỉnh núi cao chất ngất bốn mùa tuyết phủ, bầu trời đêm thăm thẳm nhấp nhánh muôn vì sao. Ta có cảm nhận, âm nhạc và những điệu múa đã nói thay lòng người về tình yêu da diết đối với xứ sở, đối với đồng loại. Phải chăng, càng trải qua nhiều gian khổ, khó khăn, càng mang lại những dấu ấn sâu sắc trong lòng người, để rồi những dấu ấn ấy được trao truyền qua nhiều thế hệ, bồi đắp mãi thêm, trở thành tình yêu quê hương, xứ sở, sâu sắc, đậm đà như một căn tính khó lòng thay đổi của con người nơi vùng đất Kashi.

Các bạn ở địa phương nói với chúng tôi rằng, bận gì thì bận nhưng phải đến Thành cổ của Kashi, bởi người ta vẫn nói, chưa đến Thành cổ là chưa đến Kashi, chưa đến Kashi là chưa đến Tân Cương. Quả thực, chuyến trải nghiệm thành cổ Kashi để lại cho chúng tôi nhiều ấn tượng mới mẻ, độc đáo về con người, cuộc sống của một Kashi cổ sơ mà hiện đại.

Chúng tôi đến Thành cổ của Kashi vào chiều chủ nhật trước khi lên đường về nước, ngay lập tức bị hút vào dòng người trên con phố trung tâm mang tên Adria. Hai bên mặt phố san sát những cửa hàng, cửa hiệu bày bán các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, các sản phẩm hàng hóa, ẩm thực. Có những sạp hàng bày ra ngay trên đường phố dưới những chiếc ô lớn hay dưới mái hiên của những ngôi nhà. Dòng người chen nhau đi trên phố, tíu tít hỏi han, mặc cả, mua đồ trong những cửa hàng. Có cảm giác ở đây cái gì cũng có, vải, lụa, len, dạ, thảm, da thuộc, quần áo may sẵn, các đồ kim loại, đồ gỗ, đồ gốm, bình đựng nước, bình đựng rượu, ấm pha trà, cốc chén, bán đĩa, giày dép, dao kéo, v.v. và v.v.. Có những vật lưu niệm chỉ vài nhân dân tệ đến những cái bình bằng đồng chạm khắc tinh xảo giá vài ba trăm đến cả nghìn tệ. Điều đặc biệt, hầu hết các mặt hàng ở đây đều có thể mặc cả, mặc dù có ghi giá trên sản phẩm. Chính tôi đã mặc cả để mua cái bình bằng đồng với giá bằng đúng một nửa giá niêm yết, vậy mà anh bạn cùng đi vẫn bảo tôi mua chưa sát giá. Trong thành cổ có cả một khu phố ẩm thực dài có đến cả nửa cây số, với các xe bán đồ ăn nhanh dừng ngay giữa phố, những cửa hàng phục vụ thực khách trên những dãy bàn ghế bày ra trên phố và những cửa hàng rộng lớn, nhiều phòng ốc đằng sau cánh cửa vào. Cả dãy phố sực nức mùi thơm của thịt nướng và những món ăn đặc sản địa phương.

Càng về chiều muộn, người đến Thành cổ càng đông. Toàn người là người, đông đúc như kiến cỏ, náo nhiệt như hội hè. Nhìn qua sắc phục có thể nhận thấy rất nhiều du khách cùng những người địa phương, cả những gia đình người Duy Ngô Nhĩ với đàn ông đội mũ vải thêu và phụ nữ mặc váy dài lùng thùng, choàng khăn kín mít, chỉ hở hai con mắt. Người ta lũ lượt diễu trên phố, có những lúc tắc đường, phải dừng lại, chờ cho tốp người đi trước giãn ra mới đi qua được. Người ta chen chân nhau trong các cửa hàng, cửa hiệu, nhìn ngắm, hỏi han, mặc cả mua hàng ồn ĩ. Trong các nhà hàng ẩm thực, không khí không kém phần ồn ào, náo nhiệt. Khi chúng tôi bước vào một nhà hàng ăn trên phố bắt gặp một tốp khoảng hơn chục người đi ra với vẻ mặt không vui vì không còn bàn ăn. Các bạn giải thích, vào những ngày cuối tuần, nếu không đặt trước không thể có bàn ăn ở những nhà hàng như thế này. Quả thật, phòng nào trong nhà hàng cũng đã đầy khách, nhân viên phục vụ của nhà hàng nhà hàng tíu tít đi lại. Trong một số phòng ăn còn có cả các nghệ sĩ múa hát phục vụ rất rôm rả, tiếng đàn sáo vang lừng.

Có cảm giác, cuộc sống nơi Thành cổ của Kashi trôi đi như một dòng sông ăm ắp nước, lao xao sóng, tấp nập thuyền bè ngược xuôi, mà hiền hòa, mà bình yên.

Tân Cương - Hà Nội - cuối thu

1. Bản dịch của Khương Hữu Dụng

Sực nhớ Kinh Bắc - Thơ Nguyễn Xuân Thâm

Sực nhớ Kinh Bắc - Thơ Nguyễn Xuân Thâm

Baovannghe.vn- Sực nhớ vùng Kinh Bắc/ Năm ngoái Tết về qua
Nắng nhuộm mình cây - Thơ Vũ Quần Phương

Nắng nhuộm mình cây - Thơ Vũ Quần Phương

Baovannghe.vn- Nắng nhuộm mình cây chiều ở lại/ nắng đánh dấu một triền đê hoa dại
Vua làng - truyện ngắn của Hoa Ngõ Hạnh

Vua làng - truyện ngắn của Hoa Ngõ Hạnh

Baovannghe.vn - Hoa Ngõ Hạnh tên thật là Nguyễn Minh Sơn. Sinh ngày 20/12/1972 ở Trung Phước, Quế Sơn, Quảng Nam. Tốt nghiệp trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn Huế.
Đất khách. Truyện ngắn của Châu Hoài Thanh

Đất khách. Truyện ngắn của Châu Hoài Thanh

Baovannghe.vn- Mấy năm đất khách quê người, bao lần chuyển việc cũng bấy lần chuyển nhà. Gặp đủ các kiểu người nhưng không ai giống cô ấy. Bữa đầu cứ một hai, để cô giặt và gấp đồ hộ cho. Lành tủm tỉm hốt đống đồ dơ ném vào rổ. Còn Sen thì...
Ngày xuân đi xông đất

Ngày xuân đi xông đất

Baovannghe.vn - Ngày mồng một Tết, theo quan niệm của người xưa, đó là ngày cực kỳ quan trọng của một năm. Nó như trang giấy trắng đầu tiên của quyển vở còn mới nguyên, ta phải viết chữ sao cho thật đẹp, thật sạch để làm tiền đề cho sự thành công.