Trải qua những biến cố lịch sử quan trọng của đất nước, sứ mệnh lớn lao của mỗi nhà thơ, nhà văn yêu nước là phải có các tác phẩm đến được với trái tim nhiều triệu người, để nói lên tiếng nói của con người hôm nay, cùng với những nỗi đau và khát vọng hoà bình - độc lập tự do của dân tộc.
Từ xưa đến nay tình yêu Tổ quốc, tình yêu đất nước luôn là nguồn cảm hứng lớn trong thi ca của những nhà thơ Việt Nam yêu nước. Điều cốt lõi khiến những bài thơ về Tổ quốc, đất nước có thể đi vào lòng người là nhà thơ phải có được cảm xúc thật sự đối với tình yêu lớn lao đó, điều ấy không chỉ nằm ở khía cạnh ngợi ca mà còn phải nhìn nhận sâu sắc hơn ở góc độ tự sự và chiêm nghiệm của một nhà thơ. Anh không thể vay mượn cảm xúc của những rung động khác, của những trải nghiệm khác để đưa vào thơ mình. Điều quan trọng, nhà thơ phải phát hiện được những tứ thơ có tính sử thi, có tính tráng ca, hào sảng khi viết về đề tài Tổ quốc và đất nước. Và đấy chính là những cảm xúc và suy tưởng khi tôi viết bài thơ “Tổ quốc nhìn từ biển” với những câu thơ sau:
Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển
Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa
Ngàn năm trước con theo cha xuống biển
Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa
Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc
Các con nằm thao thức phía Trường Sơn
Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả
Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm hoạ
Đã mười lần giặc đến tự biển Đông
Những ngọn sóng hoá Bạch Đằng cảm tử
Lũ Thoát Hoan bạc tóc khiếp trống đồng
Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát
Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời
Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất
Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi
Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển
Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng
Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa
Trong hồn người có ngọn sóng nào không?
Và tôi nghĩ rằng, trong tâm hồn mỗi nhà thơ, mỗi nhạc sĩ chúng ta hôm nay, nếu không trào dâng lên ngọn sóng thi ca yêu nước ấy thì làm sao các bài thơ và bản nhạc của chúng ta có được sự cộng hưởng tri âm từ hàng triệu người đọc yêu nước vào những thời điểm đất nước gian lao.
Ngược thời gian, cách đây 40 năm, Tô Thùy Yên và Phạm Lê Phan là hai nhà thơ
đương đại đầu tiên của Việt Nam viết về Hoàng Sa, Trường Sa. Đầu năm 1974, khi Hoàng Sa bị Trung Quốc đánh chiếm thì ngay lập tức những câu thơ viết về Hoàng Sa của nhà thơ Phạm Lê Phan đã như một ngọn lửa thắp lên nỗi đau và sự căm hờn, quân cướp biển trong trái tim sôi sục của hàng chục triệu người Việt Nam yêu nước đang hướng về quần đảo Hoàng Sa và sự hy sinh dũng cảm của 74 người lính hải quân trước họng súng của những kẻ xâm lược. Nhưng câu thơ này có thể coi như một khúc tráng ca của sự phẫn uất ngân vang trong lòng người đọc nỗi ngậm ngùi khi một phần máu thịt của đất nước đang bị giày xéo ở Hoàng Sa:
Hờn căm trừng mắt lửa
- Hỡi Hoàng Sa, hỡi Hoàng Sa...
Mẹ đứng mũi Sơn Trà
Gửi hồn ra Đông Hải
Đảo nổi giận nên biển cuộn sóng dậy
Ôi, đất nước ông cha: tay đứt lòng đau
Súng thét khơi xa, sao lửa đốt trong đầu
Lòng mẹ bời bời: ruột mềm máu chảy
Mắt mẹ trông vời, triền môi run rẩy:
- Hỡi Hoàng Sa, hỡi các cháu con ta?
Bốn ngàn năm mài nhọn mũi căm hờn
Cờ Nương Tử phất bay hồn xâm lược
Gươm Mê Linh thét máu nhuộm đầu voi
Bạch Đằng xưa nghẹn dòng muôn xác giặc
Vó ngựa Lý, Lê từng phen đạp Tống
Ngọn giáo Đinh, Trần vạch cõi Nam uy dũng,
Đầu Mãn Thanh vờn kiếm lộng Quang Trung.
Trải an nguy son sắt vẫn một lòng
Hồn Nam Hải cuối năm
Lạnh căm căm hơi bấc
Bởi thương con mẹ lên đỉnh Sơn Trà
“Ôi Hoàng Sa, hỡi Hoàng Sa
Khôn thiêng nối gót mẹ cha mà về”...
Ngay sau khi quần đảo Hoàng Sa mất vào tay Trung Quốc vào trung tuần tháng giêng 1974 trong một trận thủy chiến không cân sức, nhà thơ Tô Thùy Yên đã viết bài “Trường Sa Hành” trong một lần đi thực tế ở đảo Trường Sa và bài thơ này đã dựng lên một hiện thực khắc nghiệt trong khúc ca bi tráng:
Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề
Lính thú mươi người lạ sóng nước
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi
Mùa Đông Bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ
Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỉ
Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên thân xác người mãi đứng yên
Chú em hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu...
![]() |
| Bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới. Ảnh: diendandoanhnghiep.vn |
Năm 1988, sau trận hải chiến tại đảo đá Gạc Ma với hải quân Trung Quốc khiến 64 chiến sĩ hải quân nhân dân Việt Nam hy sinh, bài thơ “Gửi quần đảo Trường Sa” của nhà thơ Đỗ Nam Cao đã như khắc tạc “Dáng đứng Trường Sa” vào nỗi đau bi tráng trong tâm hồn người đọc qua hình ảnh người chiến sĩ hải quân đã phất cao lá cờ Tổ quốc dưới mưa đạn quân thù:
Trường Sa ư với ngày thường xa thật
Đảo ở đâu tôi có hỏi đâu mà
Điều phẫn uất là chỉ khi máu đổ
Đảo mới gần mới thật đảo của ta
Các anh cắm ngọn cờ Tổ quốc gió cuồn cuộn
Sóng lừng ngầu bọt bãi san hô
Kẻ muốn nhổ ngọn cờ khỏi ngực
Thì nhận đây dòng máu nóng hực ra
Các anh chết làm gì có mộ
Làm gì có đất cho máu tụ thành hồn
Máu tan loãng thân thể chìm mất dạng
Chỉ còn đảo và cờ Tổ quốc giữa trùng dương
Một trong những trường ca đầu tiên viết về biển và Trường Sa là “Trường ca Biển” của nhà thơ Hữu Thỉnh. Những câu thơ đầy ắp những cảm xúc trải nghiệm của ông được biểu đạt dưới các chiều kích của suy tưởng. Thơ viết về biển của nhà thơ Hữu Thỉnh như từng trang cát, lật lên thấy dưới đó từng đợt sóng mặn mòi vì thấm máu bao người lính đã hy sinh để giữ gìn biển đảo quê hương:
Biển có đảo biển đỡ lặp lại mình
Đảo có lính cát non thành Tổ quốc
Đảo nhỏ quá nói một câu là hết
Có gì đâu chỉ cát với chim thôi
Cát và chim và thêm nữa chúng tôi
Chúng tôi lên với áo quần ướt át
Với nắng nôi muối xát thân tàu
Đảo hiện ra thử thách bạc màu
Bàn chân lính đánh vần trên đất đai Tổ quốc
Chúng tôi cùng nhau bới cát
Dọn một chỗ nằm cho đồng đội hy sinh
Chúng tôi đặt anh cạnh mốc chủ quyền
Cát và cát ầm ào sóng biển
Gió và gió ngày ngày lại đến
Xóa đi phần mộ của anh nằm
Chúng tôi lại cùng nhau bới cát
Chôn anh thêm một lần
Chúng tôi vốc cát lên
Chúng tôi nghe cát nói
Chúng tôi bắt đầu như thế với Trường Sa
Nhà thơ - người lính Trần Đăng Khoa, đã có những tháng năm tuổi trẻ của đời thơ mình gắn bó máu thịt với Trường Sa và bài thơ hay nhất của anh viết về quần đảo này đã có mặt sớm nhất trong ca khúc viết về biển đảo từng lay động hàng triệu trái tim yêu nước. Và “Thơ tình người lính biển” của anh là một trong những bài thơ tình hay nhất của thơ đương đại:
Ngày mai, ngày mai khi thành phố lên đèn
Tàu anh buông neo dưới chùm sao xa lắc
Thăm thẳm nước trời, nhưng anh không cô độc
Biển một bên và em một bên
Đất nước gian lao chưa bao giờ bình yên
Bão thổi chưa ngừng trong những vành tang trắng
Anh đứng gác. Trời khuya. Đảo vắng
Biển một bên và em một bên
Vòm trời kia có thể sẽ không em
Không biển nữa. Chỉ mình anh với cỏ
Cho dù thế thì anh vẫn nhớ
Biển một bên và em một bên...
Điểm qua những bài thơ hay viết về Hoàng Sa, Trường Sa suốt 40 năm qua để thấy rằng, trong những bài thơ như thế, phẩm chất thi sĩ và tài năng của người viết phải được huy động tối đa để dồn mọi trí lực cho sự sáng tạo. Vì viết những bài thơ như thế không phải là một cuộc chơi của ngôn ngữ thi ca với những cảm hứng bất chợt mà phải là một sự lao động nghệ thuật nghiêm túc. Hiện nay, văn học về đề tài biển đảo của chúng ta đang có nhiều chuyển động vào giai đoạn cao trào với nhiều sáng tác khá ấn tượng về Hoàng Sa, Trường Sa. Tin rằng trong thời gian tới, đề tài về biển đảo sẽ còn khơi gợi những cảm hứng bất tận cho người cầm bút bởi sứ mệnh lớn lao của một nhà thơ, nhà văn yêu nước là phải có các tác phẩm đến được với trái tim nhiều triệu người, để nói lên tiếng nói của thi ca yêu nước và khát vọng hoà bình - độc lập - tự do của dân tộc Việt Nam.