Diễn đàn lý luận

Văn học nghệ thuật - nguồn lực mềm đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới

Hồ Đăng Thanh Ngọc (Chủ tịch Liên hiệp các Hội VHNT thành phố Huế)
Lý luận phê bình 15:28 | 12/08/2025
Baovannghe.vn - Trong dòng chảy phát triển của đất nước, văn học nghệ thuật (VHNT) không chỉ là dòng sông phản ánh hiện thực, mà còn là mạch nguồn hun đúc tâm hồn dân tộc.
aa

Ở mỗi thời kỳ, VHNT đều có khả năng đánh thức tiềm lực tinh thần, khơi dậy niềm tự hào, truyền cảm hứng và kiến tạo tầm nhìn cho cộng đồng.

Ngày nay, khi Việt Nam đang bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên của công nghệ số, kinh tế sáng tạo và hội nhập sâu rộng, trong bối cảnh chuyển đổi số, toàn cầu hóa và phát triển bền vững, vai trò của văn học nghệ thuật như một nguồn lực mềm ngày càng được đề cao trong chiến lược phát triển quốc gia.

Văn học nghệ thuật - nguồn lực mềm đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới

I. Giá trị trường tồn của văn học nghệ thuật

1. Văn học nghệ thuật - bản sắc và tâm hồn dân tộc

VHNT là nơi chưng cất tinh thần dân tộc, không chỉ là công cụ để phản ánh thực tại, mà còn là phương tiện để thể hiện ước mơ, khát vọng và tầm nhìn của một dân tộc. VHNT còn có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi những yếu tố văn hóa ngoại lai có thể lấn át các giá trị truyền thống, thì VHNT chính là một "lá chắn" mạnh mẽ để bảo vệ và khôi phục những giá trị tinh thần, văn hóa cốt lõi của mỗi dân tộc.

Những tác phẩm VHNT đậm đà bản sắc dân tộc không chỉ là niềm tự hào mà còn là công cụ giúp thế hệ mai sau nhận thức sâu sắc hơn về những giá trị tinh thần của cha ông. Chúng không chỉ thể hiện qua những câu chuyện hay bức tranh mà còn thể hiện qua những cảm xúc, những ý tưởng về lòng yêu nước, về sự đoàn kết, và khát vọng tự do. Những tác phẩm VHNT như thế có khả năng nuôi dưỡng và duy trì tinh thần dân tộc qua các thế hệ, từ đó tạo nên sức mạnh mềm vô cùng lớn lao, thậm chí có thể kéo dài qua hàng trăm năm.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”. Ngay từ thế kỷ XIX, học giả Phan Bội Châu đã khẳng định: “Văn chương không phải là vật ngoài thân, mà là huyết mạch của quốc hồn.” Ngày nay, trong các chiến lược phát triển văn hóa hiện đại, VHNT tiếp tục được xác định là lõi tinh thần và bản sắc văn hóa. Theo Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030, văn hóa là "nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc" (QĐ 1909/QĐ-TTg, 2021)(1).

2. Giá trị nội tại và đối ngoại của VHNT

2.1. Cảm hóa và dẫn dắt xã hội

Trong tiến trình phát triển xã hội, VHNT luôn thể hiện vai trò như “người bạn đồng hành”, giúp xã hội soi rọi lẽ sống, khát vọng về cái đẹp, cái cao cả. Trước những rạn nứt của thời hiện đại - lối sống tiêu dùng, bạo lực mạng, khủng hoảng niềm tin - VHNT có thể khơi dậy lòng trắc ẩn, trí tuệ nhân văn và sự kết nối cộng đồng.

Theo Joseph Nye, “sức mạnh mềm” là khả năng gây ảnh hưởng qua sức hấp dẫn văn hóa, chứ không phải ép buộc hay mua chuộc(2). VHNT là một trong ba trụ cột cấu thành sức mạnh mềm, bên cạnh chính trị và chính sách đối ngoại.

Trong lịch sử các quốc gia có liên quan đến Việt Nam; Hàn Quốc với làn sóng Hallyu, Nhật Bản với anime, Pháp với nghệ thuật và điện ảnh, đều đã thành công trong việc chuyển hóa VHNT thành “nền ngoại giao cảm xúc” đầy hiệu quả. Từ góc nhìn đó, VHNT Việt Nam - với bề dày lịch sử và phong phú bản sắc – có tiềm năng trở thành nguồn lực chiến lược để định hình hình ảnh quốc gia trong kỷ nguyên hội nhập.

2.2. Xác lập uy tín quốc gia

Câu chuyện sau đây của giáo sư Trần Văn Khê khiến chúng ta suy nghĩ:

“Giáo sư Trần Văn Khê được mời dự buổi sinh hoạt của Hội Truyền bá Tanka Nhật Bản, tổ chức tại Paris (Pháp). Tham dự hầu hết là người Nhật và người Pháp, duy chỉ mình ông là người Việt. Diễn giả hôm đó là một cựu Thủy sư Đề đốc người Pháp đã mở đầu bài thuyết trình bằng câu: “Thưa quý vị, tôi là Thủy sư Đề đốc đã sống ở Việt Nam 20 năm mà không thấy một áng văn nào đáng kể. Nhưng khi sang nước Nhật, chỉ trong vòng một, hai năm mà tôi đã thấy một rừng văn học, trong đó Tanka là một đóa hoa tuyệt đẹp, chỉ cần nói một ngọn núi, một con sông mà tả được bao nhiêu tình cảm với chỉ 31 âm tiết. Chỉ hai điều này thôi, các nước khác không dễ có được…”. Lời phát biểu đã chạm đến lòng tự trọng dân tộc của Giáo sư Trần Văn Khê. Khi đến phần giao lưu, ông xin phép được bày tỏ: “Thưa Ông Thủy sư Đề đốc, ông nói rằng ông đã ở Việt Nam cả 20 năm mà không thấy áng văn nào đáng kể. Tôi là người Việt, khi nghe câu đó tôi đã rất ngạc nhiên. Chẳng biết khi ngài qua Việt Nam, ngài chơi với ai mà chẳng biết một áng văn nào của nước Việt? Có lẽ ngài chỉ chơi với những người quan tâm đến chuyện ăn uống, chơi bời, hút xách… Phải chi ngài chơi với giáo sư Emile Gaspardone thì ngài sẽ biết đến một thư mục gồm 1300 sách báo về văn chương Việt Nam mà giáo sư đã in trên Tạp chí Viễn Đông Bác cổ của Pháp. Hay nếu ngài gặp ông Maurice Durand thì sẽ có dịp đọc qua hàng ngàn câu ca dao Việt Nam mà ông ấy đã cất công sưu tập… Nếu ngài làm bạn với những người như thế, ngài sẽ biết rằng nước tôi không chỉ có một, mà có đến hàng vạn áng văn kiệt tác…”

Giáo sư Trần Văn Khê tiếp tục chia sẻ với giọng nói đanh thép: “Ngài nói trong thơ Tanka, chỉ cần một ngọn núi, một con sông mà tả được bao nhiêu tình cảm. Tôi chỉ là nhà nghiên cứu âm nhạc nhưng với kiến thức văn chương học thời trung học cũng đủ để trả lời ngài: Việt Nam có câu: “Đêm qua mận mới hỏi đào/Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?”. Trai gái thường mượn hoa lá để bày tỏ tình cảm. Còn về số âm tiết, tôi nhớ sử Việt Nam chép rằng ông Mạc Đĩnh Chi thời nhà Trần đi sứ sang nhà Nguyên (Trung Quốc) gặp lúc bà phi của vua Nguyên vừa từ trần. Nhà Nguyên muốn thử tài sứ giả nước Việt nên mời đọc điếu văn. Mở bài điếu văn ra chỉ có 4 chữ “nhất”. Mạc Đĩnh Chi không hốt hoảng mà ứng tác đọc liền:

“Thanh thiên nhất đóa vân

Hồng lô nhất điểm tuyết

Thượng uyển nhất chi hoa

Dao trì nhất phiến nguyệt

Y! Vân tán, tuyết tiêu, hoa tàn, nguyệt khuyết!”

Khi Giáo sư Khê dịch và giải nghĩa những câu thơ này thì khán giả vỗ tay nhiệt liệt. Ông Thủy sư Đề đốc đỏ mặt: “Tôi chỉ biết ông là một nhà âm nhạc nhưng khi nghe ông dẫn giải, tôi biết mình đã sai khi vô tình làm tổn thương giá trị văn chương của dân tộc Việt Nam, tôi xin thành thật xin lỗi ông và xin lỗi cả dân tộc Việt Nam”.” (3)

Trong quan hệ quốc tế, văn học và nghệ thuật đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng hình ảnh quốc gia, tạo nên những cầu nối văn hóa, và là công cụ để thể hiện sức mạnh mềm của một đất nước. Chúng không chỉ thể hiện bản sắc, mà còn là phương tiện giao tiếp giữa các nền văn hóa khác nhau, khơi gợi sự thấu hiểu và cảm thông giữa các quốc gia. Văn học nghệ thuật giúp thúc đẩy đối thoại, là cầu nối giữa các dân tộc, giúp giảm thiểu sự hiểu lầm và căng thẳng, từ đó tạo ra những cơ hội hợp tác và phát triển bền vững.

II. Cơ hội và thách thức của VHNT Việt Nam trong kỷ nguyên số

2.1. Cơ hội mở ra từ chuyển đổi số và kinh tế sáng tạo

Kỷ nguyên số mang đến khả năng kết nối rộng rãi, cho phép các tác phẩm văn học nghệ thuật lan tỏa nhanh chóng đến mọi ngóc ngách của thế giới. Từ đó, chúng có thể chạm đến trái tim của những người yêu văn học ở mọi nơi, bất chấp rào cản ngôn ngữ, không gian và thời gian. Những tác phẩm văn học hay các biểu đạt nghệ thuật có thể được chia sẻ, thảo luận, và phản hồi một cách dễ dàng qua các nền tảng số.

Sự xuất hiện của các nền tảng như blog, mạng xã hội, hoặc các ứng dụng đọc sách điện tử tạo cơ hội cho những tác phẩm không nằm trong dòng chính thống có thể dễ dàng tiếp cận độc giả.

Sự thay đổi trong cách thức sáng tác và thưởng thức

Tác giả ngày nay có thể tiếp cận nhiều công cụ kỹ thuật số mới để sáng tác như viết trên các phần mềm văn phòng, các ứng dụng chỉnh sửa hình ảnh, âm nhạc hoặc video. Sự kết hợp giữa văn học và các phương tiện đa phương tiện (như video, âm nhạc, đồ họa) đã tạo nên những tác phẩm nghệ thuật "đa phương tiện", cho phép người sáng tạo khai thác nhiều chiều sâu cảm xúc và tư tưởng hơn.

Với sự phát triển của công nghệ số, VHNT đang bước vào giai đoạn “mở” chưa từng có: Các nền tảng số như YouTube, TikTok, Spotify đã giúp nhạc, thơ, truyện tranh tiếp cận công chúng toàn cầu. Xuất hiện các dự án độc lập như Thơ Mới kể lại bằng hoạt hình, Thư viện Văn học số hóa của các trường đại học, sân khấu kỹ thuật số, hay các podcast văn chương được sản xuất bởi chính những người trẻ.

Theo Nghị quyết 102/NQ-CP (2021), công nghiệp văn hóa được kỳ vọng sẽ đóng góp 7% GDP vào năm 2030 – một minh chứng cho vai trò VHNT như động cơ mới của nền kinh tế sáng tạo (4).

2.2. Văn học nghệ thuật đối mặt với thách thức "số hóa"

Dù có nhiều cơ hội, văn học và nghệ thuật trong kỷ nguyên số cũng phải đối mặt với những thách thức lớn, chẳng hạn như sự xâm lấn của các sản phẩm giải trí nhanh, dễ tiếp cận như video, trò chơi điện tử, hay các bài viết ngắn gọn, dễ tiêu thụ trên mạng xã hội. Điều này dẫn đến sự cạnh tranh khốc liệt về sự chú ý của công chúng và có thể khiến các tác phẩm văn học nghệ thuật chất lượng cao bị lu mờ.

Cùng với đó, sự số hóa cũng mang lại nguy cơ làm mờ nhạt giá trị nghệ thuật đích thực, khi mà xu hướng tiêu thụ nghệ thuật chỉ dựa trên "click" và "like" có thể khiến các sáng tác nghệ thuật trở nên dễ dãi và thiếu chiều sâu.

Khả năng tương tác và phản biện trong không gian số

Trong kỷ nguyên số, văn học nghệ thuật có thể trở thành một không gian mở để người sáng tạo và người thưởng thức nghệ thuật có thể tương tác và phản biện lẫn nhau. Các diễn đàn, các trang web thảo luận, hoặc các nền tảng mạng xã hội không chỉ giúp quảng bá tác phẩm mà còn tạo ra môi trường thuận lợi để người thưởng thức nghệ thuật đưa ra ý kiến phản hồi, từ đó tạo sự gắn kết và phản hồi liên tục.

2.3. Hi vọng từ việc phát huy văn hóa nguồn cội

Năm 2023, trong dự án thời trang nghệ thuật quảng bá 63 tỉnh, thành phố và đưa văn hóa Việt Nam ra quốc tế, nhà thiết kế Thạch Linh đã đưa show thời trang “Ký hoạ quê hương” về Chí Linh (Hải Dương) - quê hương của cô. Thạch Linh đã đưa những đặc sản mang đậm dấu ấn Hải Dương như bánh đậu xanh, bánh gai, vải thiều, ổi Thanh Hà, chả rươi Tứ Kỳ… hiện diện trên trang phục một cách tinh tế và sống động.

Những sản phẩm âm nhạc mang đậm bản sắc dân tộc “Thái Bình mồ hôi rơi” của Sơn Tùng M-TP, “Một vòng Việt Nam” của Tùng Dương, “Người miền núi chất” của Double 2T không chỉ là các tác phẩm nghệ thuật đơn thuần mà còn đóng vai trò như những "sứ giả văn hóa".

Trong năm 2025 này, MV "Bắc Bling" của Hòa Minzy, đang là minh chứng rõ nét nhất của sự thành công khi đưa văn hoá dân tộc vào trong tác phẩm âm nhạc. Chỉ sau 4 ngày ra mắt, MV đã đạt 14 triệu lượt xem trên YouTube, giữ vị trí số 1 xu hướng YouTube Việt Nam. Hình ảnh áo tứ thân, nón quai thao, câu hát quan họ Bắc Ninh hay bức tranh làng quê bình dị được lồng ghép trong các sản phẩm nghệ thuật một cách uyển chuyển, tài tình, sinh động đã giúp thế hệ trẻ hiểu hơn về quê hương của mình. Trên nền giai điệu trẻ trung, Hòa Minzy lồng ghép duyên dáng các yếu tố truyền thống, khiến tác phẩm chinh phục nhiều lứa tuổi. Một phần ca từ lấy cảm hứng từ các câu dân ca trong bài “Mời trầu”, “Người ở đừng về” hay câu tục ngữ “Ta về ta tắm ao ta/ Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Ở phần hình ảnh, MV đã biết cách giới thiệu hàng loạt nét văn hóa như tranh Đông Hồ, hội kéo co làng Hữu Chấp, hội Lim, làng nghề gốm cùng một số địa danh gồm chùa Dâu, đền Bà Chúa Kho, Nhà hát Dân ca Quan họ Bắc Ninh. Bên cạnh đó, cũng đề cập một số tập tục của người Việt nói chung như têm trầu, nhuộm răng đen, lễ vinh quy bái tổ.

Giữa năm 2025, âm nhạc của Phương Mỹ Chi bỗng nổi bật trên sân khấu quốc tế “Sing ! Asia”. Cô gây ấn tượng với khán giả bởi sự kết hợp độc đáo giữa âm nhạc dân tộc, đặc biệt là cải lương, và phong cách hiện đại. Tiết mục của cô được đánh giá cao về sự sáng tạo, kỹ thuật và khả năng "xuất khẩu" giá trị văn hóa Việt Nam.

Giá trị của các ca khúc Phương Mỹ Chi nằm ở sự kết hợp độc đáo giữa âm nhạc truyền thống và hiện đại, mang đến những sản phẩm âm nhạc vừa mang tính giải trí, vừa lan tỏa các giá trị văn hóa, tinh thần dân tộc. Cô không chỉ là một ca sĩ mà còn là người gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc qua âm nhạc, đặc biệt là các ca khúc mang âm hưởng dân gian. Ví dụ: ca khúc “Gối Gấm” lấy cảm hứng từ nữ sĩ Hồ Xuân Hương, kết hợp với yếu tố văn hóa dân gian và hiện đại, thể hiện sự cô đơn và chờ đợi của người phụ nữ qua nhiều thời đại. “Bóng phù hoa” lấy cảm hứng từ truyện cổ "Chuyện người con gái Nam Xương", được 1trình diễn bằng cả tiếng Việt và tiếng Trung tại Singapore. Phương Mỹ Chi đã gây sốt khi đưa dân ca, âm nhạc dân tộc Việt Nam (Lý Bắc bộ, cải lương) lên sân khấu quốc tế, điển hình là tiết mục mashup “Lý Bắc Bộ” , “Bóng phù hoa”, cùng với Khả Lâu kết hợp “Túy âm” với “Lục hải vi vương”… Phương Mỹ Chi đã kiên định với dân ca và những giá trị văn hóa Việt. Với cô, âm nhạc không chỉ là phương tiện để thể hiện kỹ năng hay cảm xúc cá nhân mà còn là chiếc cầu nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa những giá trị truyền thống với đời sống hiện đại đang không ngừng chuyển động. Sự nổi bật của Phương Mỹ Chi không chỉ dừng lại ở khía cạnh chuyên môn mà còn lan tỏa ra truyền thông và mạng xã hội. Khán giả quốc tế, đặc biệt là khán giả Trung Quốc, đã dành nhiều lời khen ngợi cho cô, gọi cô là “phép màu âm nhạc dân gian phương Đông”. Cô đã chứng minh được khả năng làm mới truyền thống, đưa văn hóa Việt Nam ra thế giới một cách tinh tế và hiệu quả.

III. Cần có chiến lược để phát triển VHNT

3.1. Những thành tựu và thách thức

VHNT nửa thế kỷ sau ngày đất nước thống nhất, hững thành tựu nổi bật có thể nhắc đến là: 1. Phản ánh đa dạng đời sống: VHNT đã phản ánh chân thực, sinh động đời sống xã hội, con người Việt Nam trên mọi miền đất nước, từ nông thôn đến thành thị, từ miền xuôi đến miền núi, từ quá khứ đến hiện tại. 2. Đa dạng hóa các loại hình, thể loại: VHNT đã có sự phát triển mạnh mẽ về các loại hình, thể loại như văn học, âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, hội họa, nhiếp ảnh, kiến trúc. 3.Phát triển mạnh mẽ ở các địa phương. 4. Ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số: VHNT đã có sự ứng dụng công nghệ, chuyển đổi số trong sáng tác, quảng bá tác phẩm, mở rộng không gian tiếp cận tác phẩm đến công chúng.

Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế: Chất lượng một số tác phẩm chưa cao; Chưa khai thác hết tiềm năng, thế mạnh của VHNT; Đội ngũ sáng tác còn mỏng, chưa đồng đều; Sự quan tâm, đầu tư cho VHNT ở một số nơi, một số cấp, ngành còn hạn chế, chưa tương xứng với vai trò, vị trí của VHNT; Mặt trái của kinh tế thị trường đã tác động tiêu cực đến một bộ phận VHNT, làm xuất hiện một số tác phẩm thiếu tính nhân văn, xa rời thực tế

Bên cạnh đó, VHNT Việt Nam cũng đang đối mặt nhiều vấn đề: Thiếu chính sách ổn định hỗ trợ sáng tác, dịch thuật và phổ biến tác phẩm; Thiếu cơ chế bảo hộ quyền tác giả trong môi trường số; Đội ngũ sáng tạo bị phân mảnh, trong khi công chúng thẩm mỹ ngày càng bị chi phối bởi thị hiếu ngắn hạn.

Trong khi đó, VHNT nghiêm túc - thơ ca, sân khấu, mỹ thuật hàn lâm - vẫn thiếu hạ tầng truyền thông hiện đại và hỗ trợ thị trường.

Những thành tựu của nền VHNT và sự bùng nổ của một số cá nhân nổi trội gần đây, cho thấy một vấn đề khác đặt ra là việc nâng cao nhận thức về văn hóa dân tộc không thể chỉ dừng lại ở các sản phẩm nghệ thuật cá nhân, mà cần có sự chung tay từ các tổ chức, cơ quan quản lý văn hóa và cộng đồng. Các chiến dịch truyền thông, sự kiện âm nhạc, liên hoan nghệ thuật mang tính kết nối sẽ giúp mở rộng quy mô tiếp cận, đồng thời tạo động lực để các nghệ sĩ tiếp tục sáng tạo những tác phẩm mang hơi thở dân tộc.

3.2. Một số đề xuất chiến lược phát triển VHNT như nguồn lực mềm

3.2.1. Hoàn thiện chính sách phát triển gắn với công nghiệp văn hóa

- Tích hợp VHNT vào chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa, đặc biệt là các ngành như xuất bản, điện ảnh, âm nhạc, nghệ thuật biểu diễn.

- Thành lập Quỹ Quốc gia Hỗ trợ Sáng tác và Dịch thuật Văn học, lấy mô hình từ Canada, Pháp, đặc biệt là Hàn Quốc (5)

3.2.2. Đẩy mạnh chuyển đổi số, xây dựng công chúng nghệ thuật

-Số hóa kho tàng văn học dân gian, thư viện, bảo tàng, sân khấu.

-Phát triển hệ sinh thái sáng tạo kỹ thuật số, hỗ trợ các nghệ sĩ trẻ xây dựng thương hiệu văn hóa cá nhân qua nền tảng số.

-Tích hợp giáo dục nghệ thuật - văn học vào chương trình phổ thông theo hướng cảm thụ, thực hành và tương tác.

-Tổ chức các chương trình "nghệ thuật đến trường học", "đọc sách cùng nhà văn", "kể chuyện văn học trên podcast", v.v.

3.3.3. Quảng bá VHNT Việt Nam ra thế giới

- Hỗ trợ dịch thuật tác phẩm văn học đương đại.

- Đưa VHNT tham gia các hội chợ, liên hoan, triển lãm quốc tế.

- Xây dựng các dự án phim, truyện tranh, sách ảnh… mang tính giới thiệu lịch sử – văn hóa – nhân học Việt Nam.

IV. Kết luận: Nên nhìn nhận VHNT là tài nguyên phát triển quốc gia

Octavio Paz từng nói: “Nơi văn học ngự trị, là nơi ký ức trở thành hiện tại và con người bước ra từ thời gian.”

Trong kỷ nguyên mà công nghệ đang thay đổi cả thế giới sáng tạo, VHNT – với tư duy biểu tượng, sức mạnh cảm xúc và chiều sâu nhân bản – chính là yếu tố gìn giữ nhân tính và bản sắc dân tộc.

Muốn đất nước đi xa, không thể thiếu một hệ sinh thái VHNT phong phú, sống động và được đặt vào trung tâm phát triển chiến lược quốc gia. Đã đến lúc chúng ta nhìn VHNT không chỉ là “thứ phụ trợ tinh thần”, mà là một tài nguyên phát triển quốc gia, một “ngọn lửa” văn hóa soi rọi con đường bước vào tương lai.

-------------------------------

Chú thích:

(1) Chính phủ Việt Nam. (2021). Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030. Quyết định số 1909/QĐ-TTg.

(2) Nye, Joseph S. (2004). Soft Power: The Means to Success in World Politics. PublicAffairs.

(3) theo trithucvn: https://trithucvn2.net/van-hoa/co-giao-su-tran-van-khe-ngai-choi-voi-ai-ma-khong-biet-mot-ang-van-nao-cua-nuoc-viet.html

(4) Chính phủ Việt Nam. (2021). Nghị quyết số 102/NQ-CP về phát triển công nghiệp văn hóa.

(5) Quỹ Quốc gia Hỗ trợ Sáng tác và Dịch thuật Văn học (thường gọi là quỹ văn học quốc gia), là một thiết chế văn hóa mà nhiều nước phát triển như Canada, Pháp, Hàn Quốc đã thiết lập và vận hành nhằm bảo vệ, phát triển, quốc tế hóa nền văn học nước nhà. Mỗi quốc gia có mô hình riêng, nhưng đều hướng đến ba mục tiêu cốt lõi: Hỗ trợ sáng tác văn học đương đại: Tạo điều kiện vật chất và không gian sáng tạo cho nhà văn, nhà thơ, biên kịch…; Tài trợ dịch thuật: Đưa văn học quốc gia ra thế giới và dịch tinh hoa thế giới vào tiếng mẹ đẻ; Thúc đẩy văn học như một ngành công nghiệp sáng tạo: Gắn văn học với giáo dục, truyền thông, xuất bản, điện ảnh, du lịch văn hóa…

Ở Canada, Quỹ hỗ trợ sáng tác và dịch thuật được đặt dưới Canada Council for the Arts – cơ quan văn hóa cấp quốc gia. Chương trình dịch thuật (Translation Grants): Hỗ trợ dịch tác phẩm Canada sang ngoại ngữ và ngược lại. Ở Pháp, Centre National du Livre (CNL) là cơ quan của Bộ Văn hóa Pháp, thành lập từ 1946, là “bệ phóng” của nền xuất bản và dịch thuật Pháp.

Ở Hàn Quốc: Giải Nobel Văn chương 2024 đã được trao cho nhà văn Hàn Quốc Han Kang (sinh 1970). Để lọt được vào “mắt xanh” của Uỷ ban Nobel, tác phẩm của Han Kang phải ra được thế giới thông qua bản dịch, trước nhất là tiếng Anh. Nhưng sẽ không có những bản dịch tác phẩm của Han Kang và không chỉ của bà từ tiếng Hàn ra tiếng Anh và các thứ tiếng khác nếu không có sự hỗ trợ dịch thuật của nhà nước và tư nhân ở Hàn Quốc.

Tại xứ sở kim chi có hai tổ chức lo việc dịch văn chương Hàn ra thế giới. Tổ chức thứ nhất là Viện Dịch thuật văn chương Literature Translation Institute of Korea (LTI Korea) - một tổ chức công hỗ trợ văn học và văn hóa Hàn Quốc ở nước ngoài. Ngay khi có tin Han Kang được giải Nobel Văn chương, Bộ Văn hoá Hàn Quốc đã tuyên bố dự kiến sẽ chi 48,5 tỷ won (gần 900 tỷ đồng) để quảng bá văn học vào năm 2025, tăng 7,4% so với năm nay.

--------------------

Bài viết được khai thác từ hội thảo "VHNT cùng đất nước tiến vào kỷ nguyên mới"

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ
Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Baovannghe.vn - Ngày 4/12, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công bố 72 thành phố của 46 quốc gia, trong đó có Thủ đô Hà Nội của Việt Nam được công nhận là thành viên Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu của UNESCO.
Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Baovannghe.vn - Trong phiên làm việc ngày 4/12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi).
Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Baovannnghe.vn - Giọng đọc và hậu kỳ: Hà Phương; Đồ họa: Thùy Dương; Biên tập: Phạm Thị Hà
Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn