Diễn đàn lý luận

Bài thơ "Thư mùa đông" của Hữu Thỉnh

Vân Long
Tác phẩm và dư luận
10:00 | 15/12/2024
Baovannghe.vn - Bài thơ tái hiện nỗi gian khổ của người lính đóng quân ở Mèo Vạc, trên cao nguyên đá cực bắc của Tổ quốc! Tác giả tập trung miêu tả cái khắc nghiệt thiên nhiên do thời tiết giá lạnh gây ra cho người lính, ngay từ tên bài: Thư mùa đông.
aa

THƯ MÙA ĐÔNG

Bài thơ
Ảnh minh họa. Nguồn Internet

HỮU THỈNH

Thư viết cho em nhòa nét mực

Phên thưa sương muối cứ bay vào

Núi rét đêm qua chừng mất ngủ

Sáng ra thêm bạc một nhành lau

Ở đây tuyết trắng trên chăn mỏng

Bếp đỏ cơm trưa núi vẫn chờ

Mực đóng thành băng trong ruột bút

Hơ hoài than đỏ chảy thành thơ

Chắn gió cây rung trong rễ tím

Hạt ngô gieo xuống cũng co mầm

Có hôm đồng đội đi công tác

Nhớ đấy… nhưng mà thêm lớp chăn.

Gà buốt gáy lười dăm tiếng khản

Ca bát khua cho đỡ bất thường

Núi giấu trong lòng trăm thứ quặng

Anh bòn không kiếm đủ rau ăn…

Gạo thường lên sớm, thư thời chậm

Đài mở thâu đêm đỡ vắng hầm

Tin quê bén với đào lưng dốc

Vó ngựa nghe nhầm tiếng guốc em

Mây đến thường rủ anh mơ mộng

Biết vậy khuya em đỏ ánh đèn

Ước gì có chút hương bồ kết

Cho đá mềm đi, núi ấm lên.

LỜI BÌNH

Đây là cách khoanh vùng để dễ “thâm canh”. Nếu chỉ nói gian khổ của người lính nói chung thì kể sao cho hết, bài thơ sẽ thành lan man không chủ đích, tác giả chỉ tập trung vào thời điểm người lính viết thư cho người yêu, trong hoàn cảnh khắc nghiệt ấy:

Thư viết cho em nhòe nét mực

Phên thưa sương muối cứ bay vào

Ban đêm, phên thưa không che chắn nổi cái rét vùng cao, sương muối bay vào làm nhòe nét mực, là cảnh thực. Nhưng chỉ khi cảm nhận của người lính xuất hiện thì mới thành thơ:

Núi rét qua đêm chừng mất ngủ

Sáng ra thêm bạc một nhành lau

Câu thứ hai, chữ bạc thật đắt! Vừa như sương muối làm nhòa nhạt thêm màu hoa lau, vừa như chòm râu bạc của núi, khi tác giả vừa nhân cách hoá núi mất ngủ ở câu trên!

Cũng thế, tuyết trắngchăn mỏng là hiện thực, nhưng phải có chi tiết “đặc sản” hơn nữa mới càng rõ nét gian khổ của người lính phải chịu đựng: Mực đóng thành băng trong ruột bút là điều các cô gái đồng bằng không hình dung nổi!

Tác giả cao tay, không chỉ liệt kê nỗi gian khổ, mà… khi phải hơ bút trên than hồng, người lính tưởng như những dòng chữ của mình được chảy ra từ than đỏ, cũng là hàm ý sự nồng ấm của tình cảm:

Mực đóng thành băng trong ruột bút

Hơ hoài than đỏ cháy thành thơ

Rét đến nỗi cảm thấy hạt ngô cũng co mầm lại khi gieo vào đất lạnh, rét đến nỗi khi một đồng đội đi công tác vắng, dẫu một bên giường trống lạnh, buồn hơn. Nhưng anh lại có chút vui… thêm tấm chăn bạn để đỡ được phần nào cái rét. Đây là chi tiết rất hóm kiểu con nhà lính:

Nhớ đấy… nhưng mà thêm lớp chăn!

Bài thơ không chỉ khoanh vùng, định vị hoàn cảnh anh lính viết thư mà còn tập trung tâm tình người lính hướng về vùng quê thân thuộc, bếp lửa gia đình, tình yêu và nỗi niềm xa cách. Sự đối nghịch giữa rét lạnh vùng cao và mái ấm gia đình càng làm cái lạnh càng lạnh hơn, mái ấm càng ấm hơn.

Vùng cao, vùng sâu tất nhiên nhiều khó khăn vật chất rồi (Núi dấu trong lòng trăm thứ quặng/ Anh bòn không kiếm đủ rau ăn), nhưng cái thiếu thốn tinh thần mới đáng kể với người lính, điều đó chỉ cần một câu ngắn gọn: Gạo thường lên sớm, thư thời chậm.

Tất cả mọi chi tiết trên đây cuối cùng để dẫn đến sự thiếu hụt “nghiêm trọng” nhất trên cao nguyên đá này: thiếu nét mềm mại, nữ tính của người trong mộng làm cho núi như càng khô thêm, lạnh như càng lạnh thêm. Lần này nhà thơ lính cũng chỉ viết ngắn gọn thôi, nhưng sự mong mỏi và cách nói tinh tế gợi hình ảnh mái tóc dài của một người con gái trong thơ anh, đã làm cảm động cả trời đất.

Bài thơ "Thư mùa đông" của Hữu Thỉnh
Hoa Tam giác mạch - vùng cao nguyên đá tỉnh Hà Giang. Ảnh internet
Ma thuốc độc. Truyện ngắn dự thi của Lê Văn Thân

Ma thuốc độc. Truyện ngắn dự thi của Lê Văn Thân

Baovannghe.vn- Mùa này, sương phủ trắng sườn đồi. Người qua đường cởi nón dừng lại một chút sương đã bám vào mái đầu. Càng đi càng mất hút trong sương. Sương bám vào khuôn mặt lạnh tanh của những người khi ngang qua nhà tôi.
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975: Diện mạo và khuynh hướng

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1975: Diện mạo và khuynh hướng

Baovannghe.vn- Tiểu thuyết lịch sử sau Đổi mới cũng đang làm cuộc chuyển mình với những tìm tòi, đổi mới trong quan niệm thẩm mĩ về lịch sử và tiểu thuyết lịch sử
50 năm văn học Đà Nẵng nhìn từ hai chân dung thơ: Đông Trình - Tần Hoài Dạ Vũ.

50 năm văn học Đà Nẵng nhìn từ hai chân dung thơ: Đông Trình - Tần Hoài Dạ Vũ.

Baovannghe.vn - Đông Trình và Tần Hoài Dạ Vũ là hai chân dung có những điểm tương đồng và có nhiều dị biệt - dị biệt giữa họ và người cùng thời - điều làm nên cá tính sáng tạo cho mỗi nhà thơ. Và nhìn từ hai chân dung thi ca ấy cũng có thể thấy phần nào sự biến động và hệ quả của các khuynh hướng, trong mỗi giai đoạn văn học.
Tăng cường các giải pháp, thúc đẩy Đề án 06 phục vụ người dân, doanh nghiệp

Tăng cường các giải pháp, thúc đẩy Đề án 06 phục vụ người dân, doanh nghiệp

Baovannghe.vn - Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính vừa ký ban hành Công điện số 133/CĐ-TTg về đẩy mạnh thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp triển khai Đề án 06
Hoa giả hoa thật - Thơ Mai Thìn

Hoa giả hoa thật - Thơ Mai Thìn

Baovannghe.vn- Cùng màu sắc ấy/ cùng thanh tao ấy