Chúng không biết rằng, cây đa cổ thụ đầu xóm nhỏ đã mọc rễ tầng tầng, hoa lá sinh sôi mùa mùa trong ký ức tôi. Một phần năm tháng của tôi đã gắn bó với cây đa ấy. Lũ trẻ được sinh ra ở ngôi nhà bà nội gần cây đa già. Và chúng chỉ thích chơi trò ném quả đa xuống mặt ao chứ không nặng lòng với cái vòm xanh sừng sững ấy như người lớn.
![]() |
Cây đa làng Trụ Thạch. Ảnh báo Nghệ An |
Cây đa có từ bao giờ ít người biết cặn kẽ. Cụ già nhất làng cũng bảo sinh ra đã thấy cây xanh tốt ở đó rồi. Chỉ biết nếu là người xa quê thật lâu, nhìn thấy nó là biết mình đã về đúng nơi cha sinh mẹ đẻ. Tôi không sinh ra ở đấy, nhưng mỗi lần trở về nhìn cây là thấy mình đã sống một quãng đời yêu thương, hạnh phúc. Cây đa dần dần có mặt trong nhịp đời thường muôn vạn lo toan của rất nhiều người, trong đó có tôi. Tán cây cao, sum suê tỏa mát cả một ngã ba lớn. Người làng bày bán hàng, chơi đùa, nghỉ mát, hóng chuyện ngay dưới gốc đa. Ai ra vào làng cây đa biết cả, người làng đều biết. Lũ trẻ trong làng lớn lên theo mỗi mùa đa ra trái. Quả đa thuôn dài gần bằng quả trám trắng chứ không tròn như quả sung, nhưng ruột quả thì giống như sung. Quả đa ăn giòn hơn sung. Người làng tôi vẫn lấy quả đa về muối như muối cà. Đầu hè, những bữa cơm dân dã thể nào cũng có món đa muối. Cái vị đậm và bùi đủ làm cho người ta thích món này. Mùa đa chín, quả ngả màu đỏ vàng rụng tơi bời quanh gốc. Cô gái nào đó lại ngồi dưới gốc đa, ném quả chín xuống ao làng khe khẽ hát: “Bao giờ chạch đẻ ngọn đa/ Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình”… Ngọn đa xanh tít trên kia, liệu có bao giờ? Ấy vậy mà tôi biết, có người đã hát câu ca ấy, sau lại yêu và cưới đúng anh chàng mình ghét nhất. Mỗi lần rủ tôi ra gốc đa ngồi, chị lại bảo, “chạch đẻ ở ngọn đa lâu rồi dì ạ”. Thật vui.
Cây đa đã cho làng tất cả những gì nó có. Lá xanh làm bóng mát, lá rụng làm trò chơi cho trẻ hoặc đun bếp. Hoa cho hương nhè nhẹ bay đầu gió tỏa khắp làng. Qủa cho người ta chắc bụng. Đêm đêm, tiếng gió xạc xào trong bóng lá gợi cho những người đa cảm biết bao câu chuyện cổ tích ở trần gian. Tôi từng kể về chàng Thạch Sanh đánh trăn tinh cho lũ nhỏ. Chúng có vẻ tin rằng xa xưa, gốc đa ấy là nơi trú ngụ của một anh hùng…
Với người làng, rõ ràng gốc đa là nơi ở của thần linh. Ngày tết và vào các tiết xuân, hạ, thu, đông các bà, các mẹ còn thắp hương khấn cây nữa kia. Trong dân gian vẫn có câu: “Thần cây đa, ma cây gạo” đó thôi. Ngày rằm tháng bảy, gió bụi nổi lên, những chiếc lá đa đựng đầy cháo hoa được bày ra quanh gốc cây để cúng chúng sinh. Các cụ gọi cháo ấy là cháo thí, cháo được bố thí cho những linh hồn vất vưởng, cô đơn… Không gian quanh gốc đa làng trở thành linh thiêng. Vì thế mà cây đa được hồn nhiên xanh tươi cùng trời đất, không lo lắng lưỡi rìu nào bổ xuống thân mình đốn ngã bóng râm. Người làng cũng bảo vệ cây hơn, bởi nó không chỉ là cái cây, nó thành biểu tượng của làng trước bao biến cố…
Nhưng tôi biết, những người già trong làng đang lo lắng một điều rất mơ hồ. Nỗi lo ấy không thể gọi thành tên, không nói thành lời. Những thanh niên trai tráng đi làm ăn xa chẳng mấy khi về, chẳng còn mặn mà với việc làng xóm. Đám con gái mới lớn thì ngày một chạy theo đủ các trào lưu nhuộm tóc, sơn móng tay, nghe nhạc ngoại… tràn lan trên mạng Internet. Các em thích giống người thành thị sành điệu chứ không thích là người nhà quê… Cây đa biết tất cả những điều đó, bởi lẽ, đến với nó hàng ngày là những người gắn bó với làng, trở về với nó là những ai nặng nghĩa với quê.
Tôi thì vẫn tin rằng, những người trẻ ấy vì bận rộn, đam mê nhất thời, chứ trong góc lòng sâu thẳm, sao có thể quên được làng, quên được cây đa. Bởi lẽ, quên một bóng xanh che chở đời mình đâu có dễ. Và đến một lúc nào đó, khi chẳng còn lòng nhiệt tình để trao gửi tâm sự vào con người, thì chắc hẳn, người ta sẽ trở về, yên tâm ngủ một giấc thanh bình dưới bóng cây. Hay ít ra, không bao giờ phải lo lắng rằng cây sẽ làm tổn thương mình.
Tôi gặp những điều ấy trong đôi mắt những người già ngồi bên cây im lặng trong một chiều thanh vắng.