Sáng tác

Chú Ánh. Truyện ngắn của Bùi Quang Thắng

Bùi Quang Thắng
Truyện 10:33 | 16/09/2025
Baovannghe.vn - Cái Tươi dai như chão rách, nhằng nhẵng đòi theo ra bãi triều. Tôi đã bảo hôm nay bọn tôi chơi đá bóng, đó không phải là trò cho lũ con gái, vậy nhưng con bé không chịu nghe, lại còn nhai đi nhai lại rằng bố mẹ dặn tôi phải ở nhà trông nom nó.
aa
Chú Ánh. Truyện ngắn của Bùi Quang Thắng
Minh họa Phạm Hà Hải

Tôi biết ngay là có em gái sẽ rắc rối mà. Trong nhà thì sao cũng được, nhưng khi ra ngoài, nhất là trước mặt lũ bạn, tôi không muốn sắm vai một vú em.

Cái Tươi dai như chão rách, nhằng nhẵng đòi theo ra bãi triều. Tôi đã bảo hôm nay bọn tôi chơi đá bóng, đó không phải là trò cho lũ con gái, vậy nhưng con bé không chịu nghe, lại còn nhai đi nhai lại rằng bố mẹ dặn tôi phải ở nhà trông nom nó. Tôi biết ngay là có em gái sẽ rắc rối mà. Trong nhà thì sao cũng được, nhưng khi ra ngoài, nhất là trước mặt lũ bạn, tôi không muốn sắm vai một vú em.

“Mi ra đấy, ai trông mi được?” Tôi trợn mắt, nạt nó.

“Em về mách bố! Bố bảo anh không được để em ở nhà một mình với chú Ánh.”

Con bé đến là tai ngược, sểnh ra là sán lại chú Ánh, thế mà giờ lại lôi việc đó ra làm cớ.

“Chú ra ngoài rồi.” Chợt nhớ sáng giờ không thấy bóng dáng chú Ánh, tôi vớt vát, hy vọng con bé đủ ngốc để nghe lời tôi. Thế nhưng nó câng mặt lên, quặc lại:

“Tí chú về thì sao?”

Câu hỏi của cái Tươi như tiếng kẻng cảnh giác gõ vào đầu tôi; một vài tình huống rùng rợn vụt hiện - đáp án cho câu hỏi thì sao của con bé. Giờ thì ngay cả nếu nó có đồng ý, chưa chắc tôi dám bỏ nó ở nhà.

*

Tôi sợ và ghét chú Ánh bởi vì cả nhà ghét chú; còn vì sao mà cả nhà ghét chú thì tôi chịu.

Hồi bà nội còn, chẳng bao giờ bà để mắt tới chú Ánh, ấy là tôi nói theo nghĩa đen: ánh mắt bà nội không bao giờ chạm vào hay vướng phải cái đống rác thù lù mà thực ra là chú Ánh, cứ như cơ thể chú không hề tồn tại về mặt vật chất vậy! Tôi đã từng tin rằng chú Ánh là một người vô hình, ít nhất là trong mắt bà nội. Nhiều lần, tôi hồi hộp rình xem bà nội sẽ đi xuyên qua người chú Ánh như đi qua một khoảng trống rỗng như thế nào. Thế nhưng, cái khoảnh khắc li kì đầy tính khoa học viễn tưởng ấy đã không bao giờ xảy ra, bởi vì mỗi khi đường đi của bà nội lẽ ra phải cắt qua chỗ chú Ánh thì bà luôn di chuyển theo một đường vòng rất khó giải thích. Bố mẹ thì hầu như không bao giờ đả động tới chú, ngoại trừ việc ngày hai bận, khi thì người này, lúc thì người kia, bưng một bát tô đã đơm sẵn cơm và thức ăn cùng lưng cặp lồng canh lẳng lặng đặt xuống bệ bếp, rồi lúc sau lại lẳng lặng thu dọn bát và cặp lồng đã hết nhẵn.

Nhắc đến chú Ánh là điều cấm kị trong nhà. Từ khi biết nghe lỏm chuyện hàng xóm, tôi mới hay nhiều điều về chú, nhưng hàng xóm vốn là nơi mà người ta luôn kể những câu chuyện ít đáng tin cậy nhất, thế nên tôi không chắc rằng tất cả những gì tôi nghe được đều là sự thật.

*

Chú Ánh không được sinh ra ở làng này. Mười một tuổi, tức là bằng tuổi tôi bây giờ, chú được một người đàn bà quấn cái váy quây đen sì, mặc áo trắng trước ngực có hàng cúc bướm bạc ngoắc râu vào nhau như trẻ em ngoắc ngón tay, đưa đến nhà ông nội tôi và bỏ chú lại.

Hồi ấy, chú Ánh là một đứa trẻ rất đặc biệt: chú nói tiếng người Thái trắng thạo hơn cả tiếng Kinh. Nhưng cũng chính cái điều đặc biệt ấy đã xém chút gây tai họa cho gia đình tôi.

Số là ông tôi xin cho chú vào học trường làng, chú kể với mấy đứa bạn rằng ông tôi là bố của chú. Thế là có kẻ độc miệng phao tin khắp xã rằng chú là con rơi con vãi của ông tôi. Bà nội tin lời đồn, ba bốn lần toan tự tử. Bà nội không gieo mình xuống biển như cô Vân làng bên khi cô chửa hoang rồi bị bố cô ép phá thai, nếu vậy thì bà nội chết ngắc; bà nhảy xuống sông Lèn, được một người đánh lưới cứu. Ông nội đang làm thư kí ủy ban xã bị chi bộ họp kiểm điểm. Ông dẫn chú Ánh đến. Giữa cuộc họp, bị mọi người tra khảo, chú Ánh gọi ông tôi bằng bác xưng cháu. Ông tôi mới giải thích rằng chú Ánh là con của người em trai của ông đi khai hoang trên Mường Lát, lấy cô vợ người Thái trắng; người em trai ấy không may qua đời, nay cô vợ muốn tái giá nên đem trả thằng con, tức là chú Ánh, về đằng nội. Chú Ánh chưa sõi tiếng Kinh nên thỉnh thoảng gọi nhầm. Ông nội thoát án kỉ luật, vẫn giữ được cái chân trong ủy ban, nhưng kể từ đó chú Ánh bắt đầu trở nên không bình thường.

Đầu tiên, chú lầm lì, gây gổ khắp lượt với lũ trẻ trong xóm. Tai quái nhất là thỉnh thoảng chú lại gọi nhầm bác trai mình, tức ông nội tôi, là bố. Vì cái tội ấy mà chú bị ông tôi quất cho nên thân. Sau, mỗi lần chú còn gọi nhầm, ông cắt suất của chú một bát cơm. Từ đó chú chẳng gọi ông tôi là bố hay là bác nữa, mà gọi bằng cái từ tiếng Thái rất kì cục. Ban đầu ông còn gặng hỏi từ đó nghĩa là gì, chú trả lời bằng một tràng tiếng Thái còn khó hiểu hơn. Ông tôi thấy cũng chả ai hiểu nó là cái mô tê gì nên mặc kệ. Chú lại giở quẻ, không chịu nói bằng tiếng Kinh. Rồi đến lúc chú cũng chẳng buồn nói nữa. Mặc ông tôi nạt nộ đủ cách, chú ngậm tăm.

Càng ngày chú Ánh càng sinh nhiều chứng ngỗ nghịch, thú vui duy nhất của chú là làm trái lời ông tôi. Tết, ông sắm cho bố tôi và chú mỗi người một bộ quần áo mới tinh, trẻ trong xóm mơ cũng chả được. Ấy thế mà chú lôi ngay bộ quần áo ra, xé toạc cổ áo, lấy thanh củi đầu đỏ lửa dùi thủng mấy lỗ trên ống quần. Bà nội tiếc của giời, giận tím người, đay nghiến ông suốt một năm trời. Nhưng kì quặc nhất là chú cực ghét nước, không chịu tắm gội rửa ráy. Ông nội vác đòn gánh đe, chú leo tọt lên trốc mái nhà. Bố tôi phụ ông lôi chú xuống bị chú chọi mảnh ngói vỡ toác đầu. Ông nội trói gô chú lại mới tắm cho chú được. Tắm xong, chú ra bờ ruộng, cứ nhè bãi cứt trâu mà vầy be bét. Ông không dám tắm cho chú nữa.

Một sáng, ông bận ngoài ủy ban chưa về, bà nội ngồi sảy trấu ngoài sân, chú Ánh cun cút đi ra cổng rồi mất hút. Ông nội về, tìm chú khắp lượt. Ông hớt hải đạp xe ra đường tỉnh, ra quốc lộ, cứ hàng quán ven đường mà hỏi thăm, lên tuốt tận đò Lèn mới bắt được chú về. Ông bảo chú mắc chứng điên. Từ đó ông giấu nhẹm chú trong nhà, không để ló mặt ra ngoài nữa.

Bẵng đi mấy năm, hàng xóm chẳng ai thấy chú Ánh. Ai hỏi thăm chú, ông nội chỉ trả lời: “Vẫn vậy!”

*

Năm ấy, từ xã đến tỉnh đều rầm rộ tuyển quân cho chiến trường miền Nam. Bố tôi hai mươi, chú Ánh mười tám. Mới nghe loa xã bổ chỉ tiêu, bà nội ra tận ủy ban, lôi ông nội về nhà. Bà tuyên bố chắc nịch: “Ông làm sao thì làm. Thằng cả phải ở lại. Không thì không xong với tôi đâu!” Ông nội gọi chú Ánh lại tỉ tê nói chuyện. Bao năm trời chú Ánh không tắm gội, nửa người nửa ngợm, ông nội thở dài, lắc đầu. Bà nội lại bàn với ông lên mạn ngược, tìm mua thứ thuốc mê về pha vào tích nước rồi cho chú Ánh uống. Rồi khi chú Ánh đã thiêm thiếp, ông nội quây liếp ngoài bờ giếng, khiêng chú ra cắt gọt tóc tai, tắm rửa kì cọ, hàng xóm tưởng nhà tôi mổ trâu. Hết cả huyện nước và mấy bánh xà phòng mà bà mua trên thị xã mới làm chú sạch sẽ được.

Khi xong, không ai ngờ chú Ánh khôi ngô đến thế và giống đặc ông nội thời thanh niên. Hàng xóm ngỡ ngàng như mới gặp chú lần đầu, ai cũng bảo chú giống ông tôi còn hơn cả bố tôi với ông. Ông nội giơ cái gương trước mặt chú; chú ngây ra như đứa trẻ mới được thấy bóng mình. Cái diện mạo mới khiến chú lành hẳn đi và cũng tỉnh táo hoạt bát hẳn lên.

Ông viết đơn - chú bảo không để chú tự viết, chẳng hiểu chú học chữ từ bao giờ mà nguệch ngoạc viết được đầy đủ ý định xin đi bộ đội của mình, tuy vẫn còn sai chính tả. Rồi ông định dắt chú đi đăng kí, đi khám sức khỏe, chú bảo để chú tự đi, chú lớn rồi chứ còn trẻ con đâu. Chú tự đi thật, tự tin qua hết các vòng, cân nặng vừa đủ chẳng phải đeo thêm đá, chẳng ai còn nhận ra chú Ánh ngày xưa nữa. Bố tôi nhìn mọi cử chỉ của ông, của chú Ánh, của thanh niên trong xóm thấy có gì nhói lên, bứt dứt trong người lắm. Rồi bố cũng lặng lẽ làm đơn tình nguyện đi lính, nhưng bị bà bắt được, bà vắt dây thừng lên xà nhà dọa tự tử, đành thôi.

Chú Ánh đi bộ đội chỉ có cái ba lô con cóc trên lưng và ông nội như cái bóng nấp đằng sau. Khi chú Ánh lên xe khuất dạng, lần đầu tiên ông nội khóc.

Chú Ánh vào chiến trường năm 1971, không một lá thư biên về nhà. Ông nội dò hỏi khắp nơi, lên tỉnh đội, lên tận quân khu, nghe đâu chú vào Trường Sơn. Năm 1975, chiến tranh kết thúc, chú mới trở về.

Ngày chú Ánh về, trông chẳng khác khi đi là mấy, tức là vẫn khôi ngô và giống đặc ông nội nhưng đen sạm và rắn rỏi. Chú nói tiếng Kinh rất sõi, chỉ tội cái rất ít nói. Chú còn mang theo một vết sẹo nhỏ trên vai trái và tấm bằng khen của đơn vị. Vết sẹo nhỏ chưa đủ để biến chú thành thương binh nhưng cũng đủ để ông nội mừng quýnh; ông khoe khắp xóm, đến đâu ông cũng trật áo chú Ánh, trỏ vết sẹo trên vai và bảo:

“Cháu trai tôi, cừ lắm!”

Bữa xã tổ chức tuyên dương các quân nhân trở về từ chiến trường, ông nội lôi chú lên bục phát biểu nhưng chú không quen nói với cái mi-cờ-rô. Ông nội trật vai áo chú trước cử tọa, lại trỏ vào vết sẹo:

“Bà con nhìn xem! Cháu trai tôi đấy! Cừ lắm!”

Mọi người hoan hô. Ông tôi hể hả. Bà tôi thờ ơ. Bố tôi len lén ngó bà, tay vỗ theo bà con mà mặt ngay đơ. Cứ thế, ông lôi chú Ánh đi khắp xã:

“Cháu trai tôi đấy! Cừ lắm!”

Thời gian ấy, có lẽ đó là câu ông nội nói nhiều nhất:

“Cháu trai tôi đấy! Cừ lắm!”

Được hơn năm kể từ khi trở về, chứng điên của chú Ánh có chiều hướng tái phát: chú lại câm tịt và rồi lại ghét nước như hồi trước. Cuối cùng, ông nội chẳng còn cách nào, lại nhốt chú trong nhà.

Ông nội chết mà hai con mắt chưa chịu chết hẳn, cứ trợn trừng như hai lòng trứng gà muốn xổ ra khỏi cái xác, không ai tài nào vuốt mắt cho ông. Mãi lúc chú Ánh bước lại đầu quan tài, đứng nhìn vào trong, môi chú lẩm bẩm chỉ mỗi một tiếng gì đó, rồi chú giơ những ngón tay cáu bẩn lên, lạ thay mắt ông mới nhắm lại.

Chứng điên của chú Ánh mỗi ngày một trầm trọng. Từ ghét nước chú trở nên sợ nước; hễ một giọt nước bắn vào người là chú như phải bỏng, co rúm lại. Sự sợ hãi cùng cực thường biến thành một cái gì đó nguy hiểm. Bây giờ ai mà mang gáo nước đến gần là chú gầm gừ, mắt long sòng sọc như thể chú sẽ giết chết người ta bằng ánh mắt ấy. Chú Ánh càng ngày càng bẩn thỉu, bẩn đến nỗi bà nội phải bảo bố tôi dọn gác bếp cho chú ra đó ở. Khi tôi được sinh ra thì chú đã ở gác bếp rồi. Bà nội cấm tôi lảng vảng xuống bếp.

Bà nội chết. Bố mẹ tôi chẳng ai đả động gì đến lệnh cấm tôi xuống bếp nữa, tôi coi như thế là tự động bãi bỏ. Từ ngày có cái Tươi, bố mẹ thường dặn tôi ở nhà trông em cẩn thận. Con bé chưa hiểu chuyện người lớn nên chẳng sợ gì sất. Cái hình thù lôi thôi luộm thuộm của chú Ánh đối với nó chẳng có gì khác thường. Hễ thấy chú là nó sán ngay lại để nghịch bộ râu tóc bết bẩn của chú như chơi với con Ki lông xù. Hẳn con bé tưởng rằng gia đình nào cũng có một chú Ánh bẩn thỉu chui trên gác bếp và một con Ki lông xù bị nhốt trong cũi.

Một dạo bọn tôi thường thi trò gấp châu chấu bằng lá dừa. Mỗi đứa trưng ra một con châu chấu xem con nào to nhất, đẹp nhất. Những con châu chấu của chúng tôi, con nào con nấy xanh mướt mát, láng bóng như vừa nhảy ra từ bụi cỏ sau cơn mưa rào. Bỗng cái Tươi ở đâu chen vào, chìa ra một con châu chấu to đùng. Con châu chấu của nó được gấp rất khéo, thân xếp nếp đều tăm tắp, các vành lá cuốn tròn tạo bụng thon đều chằn chặn, đôi râu và đôi càng khéo phô ra sống lá trổ gai nhọn trông rất hùng dũng. Mỗi tội con châu chấu của cái Tươi có màu nâu bợt lẫn đen xỉn loang lổ. Bọn tôi bảo đó là châu chấu ma, không cho thi. Tôi tra cái Tươi ai gấp châu chấu cho nó, nó hồn nhiên bảo con châu chấu tự bay vào, đậu trên bệ bếp. Hôm sau, tờ mờ sáng, cái Tươi còn đương ngủ, tôi lẻn xuống bếp, quả nhiên thấy một con châu chấu ma đã chễm chệ trên bệ bếp. Tôi đem đốt ngay đi, lá dừa khô bắt lửa cháy rụi. Bọn tôi không chơi gấp châu chấu nữa.

Thỉnh thoảng, cái Tươi lại nhặt được vài thứ hay ho trên bệ bếp: lúc thì quả na bở chín nứt mắt, thơm phức, lúc thì con búp bê bện bằng rơm khô. Tôi linh cảm có gì không ổn, bèn cấm con bé bén mảng xuống bếp. Thế nhưng, tôi không phải là bà nội, cũng chẳng phải bố mẹ nên con bé xem lệnh cấm của tôi chả ra cái thá gì, ngang nhiên phớt lờ.

Bố tôi không giữ rịt chú Ánh trong nhà như hồi ông nội. Cứ chạng vạng là chú ra ngoài lang thang. Hàng xóm thấy chú lại rỉ tai nhau nhiều chuyện đơm đặt li kì. Bọn trẻ con hóng chuyện, tò mò hỏi tôi thực hư. Tôi tự thêm thắt bịa chuyện và rồi chính tôi cũng lại tin vào những lời đơm đặt của mình. Khi lũ bạn hỏi tôi có phải chú Ánh ăn thịt sống không, tôi khẳng định chắc nịch rằng gà vịt gì chú cũng nhai sống ráo. Kể xong, về nhà, tôi ra ngay vườn, đếm lại đàn gà: đúng là thiếu một con mái hoa mơ. Rình chú đi khỏi, tôi lẻn lên gác bếp kiểm tra, trong đầu mường tượng những nắm xương xẩu và những vệt máu vương vãi: chỉ có hai, ba cái lông gà dính trên vách. Tối đến, tôi không dám mò xuống bếp một mình nữa. Mẹ sai cất rổ bát, tôi bắt cái Tươi đi cùng. Vừa xếp bát vào chạn mà tim tôi giục như trống, mắt đảo khắp các xó bếp tối om om. Đến khi phát hiện đôi mắt xanh lè chiếu vào mình từ trên gác bếp, tôi đánh rớt cả chồng bát đĩa, chạy thục mạng lên nhà: ban đêm chú Ánh biến thành mèo.

Nghe chuyện của tôi, bọn trẻ hễ gặp chú Ánh thì sợ mất vía. Rồi chúng phát hiện ra rằng có một thứ vũ khí rất lợi hại có thể dễ dàng khuất phục chú Ánh: chỉ cần một gáo nước trong tay thì một đứa trẻ cũng có thể dễ dàng bắt nạt chú. Chính tôi cũng đã từng thử cái trò dã man ấy, chỉ vì tôi không thể cưỡng lại cái cảm giác được nắm trong tay thứ sức mạnh ghê gớm khiến một kẻ mà mình khiếp sợ phải khiếp sợ mình.

Tất cả những chuyện quái dị về chú Ánh, tôi không cho cái Tươi biết, sợ nó thóc mách với bố mẹ. Với lại tôi nghĩ nó vẫn còn bé; tôi định bụng khi nào con bé lớn bằng tôi bây giờ, tôi sẽ cho nó hay.

*

Vậy là tôi đành nhượng bộ, dẫn theo cái Tươi ra bãi triều, nhưng tôi bắt nó hứa chỉ được chơi trên đê chắn sóng.

Tôi đá bóng với lũ bạn, làm như thể quên bẵng cái Tươi đang chơi một mình trên đê. Không đứa nào biết là tôi vẫn kín đáo trông chừng con bé.

Cái Tươi cư xử khá biết điều. Nó chỉ chạy tới chạy lui giữa những bụi cỏ đuôi chồn trên đê, ngắt những bông xuyến kim trắng, hoặc ngồi bận bịu đào bới đất đá bằng một đoạn sậy khô. Tôi an tâm.

Trận bóng càng lúc càng gay cấn, tôi hăng quá, quên bẵng cái Tươi từ lúc nào không hay, đến khi ngẩng lên thì không thấy bóng dáng con bé đâu nữa. Tôi chạy lên đê: nó đã ra tít đoạn đê cụt, giáp vạt rừng sú. Tôi chạy lại phía ấy.

Lúc tôi tới đê cụt thì cái Tươi đã leo lên một vồng rễ sú. Tôi hoảng hồn gọi nó. Những vồng rễ sú đã lên rêu vì nước triều, trơn nhẫy, lại cong xuống chẳng khác gì cái bẫy trượt, mà chỗ ấy nước rất sâu, sóng cứ xoáy vào bờ, chỉ có những người như cô Vân lúc muốn tự tử mới leo ra đó. Cái Tươi vẫn cố tình leo ra. Bất ngờ một cơn sóng đánh tới, con bé rơi tõm xuống biển ngay trước mắt tôi. Tôi kêu thất thanh, nhìn con bé chới với giữa những cơn sóng mà chẳng biết phải làm gì.

Nghe tiếng kêu cứu của tôi, từ đâu một bóng người liền trèo lên đê. Tôi chưa kịp mừng rỡ thì ngay lập tức giật lùi lại, ngực tôi co rút bên trong: chú Ánh đang đứng lù lù trước mắt tôi.

Chú Ánh đứng trên đê, ánh mắt găm vào mặt biển; mỗi tia nước bắn đến gần cũng khiến chú rúm người tránh; đôi tròng mắt của chú như hai viên bi màu hoàng thổ phản chiếu tất cả những nỗi khiếp đảm trên thế gian. Tôi tuyệt vọng: vậy là cái Tươi hết cứu rồi! Bất chợt, vụt một cái, chú Ánh lao tùm xuống biển, nhanh đến nỗi tôi phải nhìn lại cái khoảng trống mà thân thể chú vừa ở đó để chắc rằng chú đã nhảy xuống nước. Chú Ánh bơi ra phía cái Tươi, cái áo rách bươm mà chú không kịp cởi ra khiến chú trông như một con chim ưng trúng thương đang sải đôi cánh tả tơi trên sóng.

Chú Ánh túm được cái Tươi rồi bơi trở lại. Cái Tươi chỉ bị sặc nước, lại theo chú Ánh trèo lên đê.

Lũ trẻ con cũng đã xúm lại. Đằng sau chúng là một bóng người lớn: bố tôi.

Bố tôi bước trên đê, mặt hằm hằm, cánh tay cầm roi tre của bố như bị ám thị cứ giật giật liên hồi và vụt vụt vào không khí. Thôi chết! Tôi chột dạ. Chắc bố về nhà không thấy hai anh em tôi và đã tìm khắp xóm, giờ lại thấy tôi lôi em ra bãi triều thế này thì bố giết tôi mất.

Vừa trông thấy cái Tươi ướt như chuột lột với cái áo bẩn thỉu sũng nước của chú Ánh quấn trên người, bố tôi điên tiết, đùng đùng lao đến. Chú Ánh từ lúc thấy bố tôi thì đã bước giật lùi. Đến khi bố tôi lao đến thì chú bỏ chạy. Chú Ánh chạy ngược ra phía đê cụt. Ngay lập tức, cái Tươi vùng chạy theo chú. Bố tôi cũng lao vụt theo, vừa chạy vừa gọi cái Tươi. Như một cái vòng luẩn quẩn: bố tôi đuổi theo cái Tươi, cái Tươi chạy theo chú Ánh, còn chú Ánh thì chạy trốn vì nghĩ rằng bố tôi đuổi theo chú. Tôi nhìn theo và tự hỏi: không lẽ họ cứ chạy đuổi nhau luẩn quẩn như vậy đến hết cuộc đời? Mà cái dấu chấm hết cũng không xa lắm đâu, ngay mép nước kia thôi. Một cơn giận dữ chợt bùng lên trong tôi: cơn giận dữ của trẻ con trước sự ngu ngốc của người lớn luôn kèm theo nỗi uất ức, bởi vì người lớn còn có thể giải thích cho trẻ con hiểu, nhưng trẻ con thì không.

“Bố, dừng lại!” Tôi quát lạc cả giọng và thấy mình lớn thêm vài tuổi.

Tiếng quát bất ngờ và chắc là rất lạ của tôi khiến bố giật mình, tưởng lại có chuyện gì xảy ra với tôi.

“Bố!” Tôi gào tiếp khi bố ngoảnh lại. “Chú Ánh vừa cứu cái Tươi. Nó ngã xuống biển.” Tôi chỉ nói được có vậy, cơn giận dữ vỡ ra thành một tràng nức nở, mặc dù tôi biết rằng tôi đã đủ lớn để không nên khóc trước mặt người khác.

Bố tôi khựng lại.

Chú Ánh đã trèo xuống khỏi chân đê. Thấy bố tôi không đuổi theo nữa, chú chạy chậm lại, nhưng vẫn cảnh giác trèo lên một vồng rễ sú, sẵn sàng nhảy xuống biển nếu bố tôi lại gần: chú đã nhảy xuống nước một lần rồi, giờ không còn sợ nước nữa, nhưng trong đôi mắt của chú đang hướng về phía bố tôi, một nỗi sợ hãi khác vẫn ngập tràn.

Cái Tươi cũng đã chạy tới đoạn đê cụt và bắt đầu tụt xuống từng tảng đá hộc. Tôi hiểu ra ý định của nó: nó sẽ trèo lên rễ sú cùng chú Ánh, ngay cả cú chết hụt vừa rồi ngay tại chỗ ấy cũng không thể làm con bé nao núng.

“Bố đừng lo! Chú Ánh bơi giỏi lắm. Vừa rồi con đã thấy.” Tôi đã thôi khóc và nói với bố chẳng khác gì một người lớn. Bố tôi lặng im.

Cái Tươi bắt đầu leo lên vồng rễ sú. Thấy con bé bám vào những nhánh rễ chênh vênh, chú Ánh bèn quay lại đỡ nó.

Chú Ánh cõng cái Tươi trên lưng rồi trèo trở lên đê. Lên được mặt đê, chú đặt cái Tươi xuống, còn mình thì đứng im một chỗ. Cái Tươi nắm một tay chú Ánh, kéo theo hướng về nhà. Bỗng nhiên như có ai thúc, tôi chạy ào tới bên chú, cũng nắm một bàn tay bẩn thỉu đã bợt bạt vì nước biển của chú. Chú Ánh nhìn tôi đang chùi nước mắt bằng tay kia. Có lẽ trông cái mặt tôi lúc ấy ngốc ghê lắm, thế nên lần đầu tiên, tôi thấy một nụ cười hiện trên gương mặt chú Ánh.

Còn bố tôi, có vẻ như chẳng biết phải làm gì tiếp, cũng cứ đứng im. Nước mắt khe khẽ ứa ra…

Ngày 22 tháng 8 năm 2025

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ
Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Baovannghe.vn - Ngày 4/12, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công bố 72 thành phố của 46 quốc gia, trong đó có Thủ đô Hà Nội của Việt Nam được công nhận là thành viên Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu của UNESCO.
Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Baovannghe.vn - Trong phiên làm việc ngày 4/12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi).
Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Baovannnghe.vn - Giọng đọc và hậu kỳ: Hà Phương; Đồ họa: Thùy Dương; Biên tập: Phạm Thị Hà
Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn