Sáng tác

Chuyến lưới máu. Truyện ngắn của Anh Đức

Anh Đức
Truyện
09:46 | 09/01/2025
Baovannghe.vn - Trời đã bắt đầu sụp tối. Nhưng lúc bóng tối chưa úp trọn màu đen thì trên trời sao đã mọc lấp lánh. Đêm càng đến thì sao càng bật sáng hơn lên,
aa

Vào năm một ngàn chín trăm bốn mươi ba tôi có lần tới Bãi Mũi. Từ thị xã Hà Tiên đi Bãi Mũi cũng không xa lắm. Chiếc xe ngựa đưa tôi xuống tận bãi mới dừng lại. Đằng sau lối xe vừa qua, hai hàng dấu chân ngựa in dài trên lớp cát trắng mịn.

Lần đầu tiên tôi mới tới cái bãi này. Đến Hà Tiên đã đi Thạch Động, lên núi Tô Châu nhưng không đến đây thì cũng hoài. Ông già đánh xe ngựa dừng lại, hàm thiếc của con ngựa nghiến ken két chưa dứt thì lão Tư Hưng đã chạy ra, tay lão cầm cái vi cá bơi bơi như đón khách. Lão hỏi ông già xe ngựa:

- Có khách lên không ông Bảy Hân?

Ông Bảy Hân, trỏ tôi nói:

- Có cậu này lên chơi đó!

Trên xe tôi đi có bốn người, hai người là dân biển ở đây. Khi ông Bảy Hân cầm roi vút nhẹ vào mông ngựa, đánh chiếc xe lộc xộc trở về nhà ngủ Đông Hồ rồi thì, chỉ còn lại tôi với một thím bán hàng rong. Thím ấy ốm yếu, nước da vàng bủng, cắp cái rổ trong đó còn lại ba bốn cái bánh ếch chưa bán hết.

Sau khi hỏi tôi có ở lại chơi không, và tôi gật đầu thì lão Tư Hưng quay về phía nhà gọi lớn:

- Vọi ơi! Ra khiêng đồ!

Nghe tiếng gọi, từ trên dãy nhà, một thằng bé vận khố xăm xăm chạy xuống. Nói là thằng bé bởi vì mặt mũi nó còn ngây ngô quá, chớ cũng độ mười sáu, lại có phần cao lớn khoẻ mạnh hơn tôi nhiều. Đến nơi, chợt nó chạy lại thím bán bánh kêu "má" rồi nước mắt rớt lã chã. Bấy giờ tôi mới biết người đàn bà ấy chính là má nó. Hai mẹ con dường như lâu lắm mới gặp nhau. Song chưa nói câu nào, lão Tư Hưng đã la lên:

- Thôi chớ! Đem đồ cho khách mau lên!

Người mẹ lấy hai cái bánh ếch đưa cho con và nói nhỏ:

- Thôi, đi đem đồ cho người ta lên đi!

Thằng Vọi chùi nước mắt. Đến trước tôi bỗng nó chắp tay xá một cái làm tôi nhột nhạt hết sức. Coi da thịt của nó thì biết, nắng và nước biển đã nhuộm da nó đen sạm, mốc mốc, mắt nó hơi đục và đỏ, còn tóc thì vàng cháy như hun nắng. Người lớn, con nít ở biển đại để đều như vậy cả. Cái vali nhẹ như không có gì đâu mà phải xách giùm, nên tôi cứ tự xách. Thằng Vọi ngó tôi coi bộ lạ lắm. Từ chỗ xe ngựa đậu lên chỗ cái nhà ngói nóc đỏ của lão Tư Hưng thấy thì gần, nhưng vì đi lên dốc chân tôi mỏi cứ ríu trên cát. Một đoạn đường ngắn vậy thôi, nhưng tôi bắt đầu làm quen với thằng Vọi. Tôi hỏi ở đây có gì vui không.

Vọi suy nghĩ hồi lâu rồi nói: - Tôi không biết!

Tôi thấy thằng quê quá. Rải rác trên bãi có trên mươi cái nhà bát giác màu xanh, màu vàng. Ghế phô tơi của mấy người nghỉ mát nhiều đếm không xiết. Ta cũng có, Tây đầm cũng có, ăn uống hát xướng ngậu lên. Vậy mà thằng Vọi nó nói không biết, không vui.

Lên đến nhà trọ, tôi ở gian buồng liền với lão Tư Hưng. Tôi đem đóng tiền trọ, gặp mụ Tư tôi tưởng như gặp phật Di Lặc. Sao mụ ta mập ghê gớm quá, quần áo bó lấy mình mụ chật cứng. Gió biển thổi suốt ngày mà người mụ ta lúc nào cũng đầm đìa mồ hôi. Khi mụ Tư chìa tay lấy tiền, tôi thấy cổ tay mụ núc thịt, to béo lạ thường.

Bữa cơm trưa ấy, có thức ăn ở biển. Cá đao hấp mỗi khoanh lớn bằng cổ tay của mụ Tư Hưng. Cá khoai luộc nước dừa, mực tươi chưng cách thuỷ. Trong lúc tôi ăn cơm thì thằng Vọi biến đâu mất. Bên kia nhà, hai vợ chồng lão Tư Hưng đang bận rộn với khách. Khách là bốn năm người dân lưới đến nạp từng bao lớn vi cá cho lão ta. Hai vợ chồng lão Tư săn soi mấy bao vi cá, híp cả mắt. Ăn cơm xong, tôi rà rê coi vi cá chơi cho biết. Bấy giờ lão Tư ngồi trên bục cao, gõ bàn toán lốp cốp... Tôi tưởng lão ta tính tiền để trả, nhưng không phải, lão ta có tật như vậy. Hễ người nào mướn lưới và ghe của lão mỗi tháng đến nạp vi cá hoặc bong bóng cá, thì lão Tư gõ con toán quy ngay ra tiền thử coi được bao nhiêu. Tôi có ngờ đâu mỗi cái vi cá bán tới một cắc bạc. Chín bao vị cả tất nhiên là rất nhiều bạc. Hèn gì lão ta có cái nhà ngói, tậu mười cái nhà bất giác, lại có phần hùn trên nhà ngủ Đông Hồ nữa.

Chuyến lưới máu - truyện ngắn của Anh Đức
Hình ảnh minh họa. Nguồn pinterest

Tôi đi ra ngoài. Vừa lúc ấy thằng Vọi ở đâu về, vác trên lưng một cái giỏ lớn đựng đầy sò huyết. Nó đặt giỏ sò lên thềm bếp rồi đi ra. Tôi liền theo nó xuống bãi. Thằng Vọi nói với tôi:

- Chiều tôi phải ra lưới, lén đi chơi một chút... sợ ông chủ biết được thì chết!

- Không sao, có tôi đây... Chơi một chút, chừng nào đi thì về đi, sợ gì.

Vọi chỉ con dã tràng bò lểnh nghểnh trên cát, nói:

- Anh ngó thấy chưa, nó đương vò cát đó! Vò đã đời rồi để sóng đánh tuốt luốt hết. Nè, vậy mà khó bắt được nó lắm đó nghe.

Tôi hỏi:

- Bắt con đó làm chi!

- Chơi thôi... Trên bãi này không ai bắt được dâu. Khó lắm, hễ tới gần nó trốn xuống hang liền!

Tôi nghe nó nói thì rón rén rình bắt thử. Nhưng tới gần, quả nhiên dã tràng trốn xuống hang không còn một con. Mấy lần đều bắt không được tôi hỏi Vọi:

- Mày bắt được không?

Thắng Vọi nói được, vừa nói nó vừa bảo tôi ngồi im một chỗ, đoạn nó chạy đến một nơi khác nằm rạp xuống. Nó nằm như vậy rất lâu, không động đậy. Tôi ngồi đợi, thấy chốc sau dã tràng như lên hang bốn năm con. Tưởng yên, dã tràng bò từ từ, quơ càng đằng trước. Dã tràng đã mắc lừa, tưởng Vọi là một vật gì chứ không phải là người rình bắt nó. Tôi cười ré lên, vì lúc ấy Vọi đã quơ tay chộp luôn được ba bốn con. Nó nhỏm dậy, chạy lịch phịch lại đưa cho tôi, nói:

- Thấy tôi bắt chưa?

Tôi nói:

- Bắt lần nữa mới giỏi!

Vọi nói:

- Ừ nghe!

Và dứt lời, nó chạy một quãng dài, nằm chuồi trên bãi cát như một khúc cây.

Tôi mê nhìn thằng Vọi, lão Tư Hưng đi đến hồi nào tôi không biết. Lão cầm cây đao cá (1) màu vàng vàng, có răng trông giông giống như răng cưa. Lão ta chấp cây dao cá sau lưng đi tới chỗ thằng Vọi. Chết. Thằng Vọi vẫn nằm im đợi dã tràng lên hang. Tới nơi, lão Tư vụt thét:

- Vọi! Mày có biết bao nhiêu người đang đợi mày đem lưới ra ghe không?

Tiếng lão rất to. Dứt tiếng, lão ta giơ cây đao cá, thẳng cánh tay giáng xuống. Tôi nhắm mắt, nghe một cái "chát", chừng mở ra thấy người thằng Vọi như bẹp dưới cát, trên đít nó hằn lên một lằn đỏ lớn, in nguyên hình cây đao cá. Tôi sợ nếu lão Tư trở bề cạnh răng cưa cây đao mà đánh, thì chắc là lút vô thịt thằng Vọi liền.

Trong lúc lão ta giang tay muốn đập nhát nữa, thì thằng Vọi lồm cồm dậy được, co cẳng chạy lông lốc. Lão Tư Hưng rượt theo như bay. Song hình như lão ta chỉ rượt cho nó chạy mau về đặng đem lưới ra ghe mà thôi. Tôi ngồi một mình trên bãi. Trong hai bàn tay tôi, bốn con dã tràng vẫn còn rọ rạy.

Mười sáu chiếc ghe lưới mà tôi thấy lúc trưa gần bờ, bây giờ nước thuỷ triều lên, dường như có ai dời ra ngoài hai trăm thước. Sóng đánh ào ào, mấy chiếc ghe cắm ngoài kia bồng bềnh muốn giạt đi, nhưng không hề giạt được. Xa hơn đó nữa, đảo Phú Quốc như một tảng đá màu thạch lục, nổi cố định trên mặt biển.

Thằng Vọi khệ nệ ôm từng tay lưới lớn chất lên một cái xe bò. Lâu lắm nó mới chất lên hết. Xong đâu đó nó ra trước tay càng, ghé vai vô sợi dây da trâu. Nó rị một cái, chiếc xe không nhúc nhích. Lần sau nó đổi vai bước dẫn tới, bánh xe bò mới chuyển. Thằng Vọi kéo một hơi. Tôi không ngờ nó khoẻ đến thế. Kéo tới sát mí nước nó dừng lại, bỏ dây ra, thở phào. Hai ba mươi người đi lưới mướn hàng năm cho lão Tư Hưng, từ trên cái nhà ngói nóc đỏ lô nhô kéo xuống bãi. Đến nơi họ bu chung quanh xe bò, xốc lưới trên xe xuống. Cả bọn lội xuống nước đi ra chỗ ghe.

Đất cát cạn xợt, họ lội đã xa mà vẫn chưa lút đầu gối.

... Thằng Vọi kéo cái xe chạy trở lên. Một hồi nó đi xuống, trên lưng mang cái giỏ sò huyết, hai tay bê tấm ván, trên tấm ván là một cái hoả lò than đỏ có lót vỉ sắt. Trên cổ nó còn có một xâu chuỗi, không phải chuỗi hạt trai, mà là chanh trái xỏ qua một sợi kẽm.

Thằng Vọi đem từng thứ ấy để tại chỗ xe bò rồi lội qua nơi ghe đậu. Nó không đi luôn mà ra lôi một chiếc ghe vô, đem tay lưới còn lại cùng các thứ để lên ghe.

Trên nhà bấy giờ đi xuống hai người, lão Tư Hưng với một bác già, chừng như cũng là người ở mướn. Tất cả gồm bốn người, trong, đó có tôi, sửa soạn lên ghe. Ra bãi Mũi, tôi cốt ý đi theo ra khơi cho biết. Lúc đầu lão Tư Hưng không khứng chịu, tôi nói mãi, sau cùng chìa ra một đồng bạc nói là chung tiền sò, lão ta mới thuận cho tôi đi.

Thấy chiếc ghe còn ở ngoài độ ba bốn sải tay, lão Tư mắng thằng Vọi om sòm:

- Còn một chút nữa mà cũng làm biếng không chịu kéo rấn ghe vô, mày khiến chết, tội mày bữa nay tao chưa trị đa!

Thật là lạ, ở biển mà lão ta ngại đặt chân xuống nước. Tôi thì có quần áo nào mặc quần áo ấy, còn lão ta đi lưới mà ăn mặc như đi chơi. Quần xá xị đen, áo cẩm tự màu trứng gà. Cái túi trên áo của lão, cộm ló lên gói thuốc Melina trắng.

Thằng Vọi vẫn vấn khố, mặc một cái áo vải ta nhuộm chàm, sợi to như bố tời.

Sau rồi thằng Vọi cũng phải lội ra kéo ghe vô sát bờ thêm đoạn nữa cho lão ta xuống. Bác lưới già dùng sào chõi ghe ra quãng sâu rồi cùng thằng Vọi cất buồm lên. Buồm giương cao bọc gió chạy như tàu. Sóng nhỏ thôi mà cũng hung hăng xốc tới muốn nhảy vô ghe, nhưng đời nào được, vì ghe do bác già lái luôn luôn cỡi trên lưng sóng. Lão Tư Hưng móc gói Melia, búng cái tách lòi ra một điếu, ngoạm lấy, ấm ứ nói:

- Vọi, lấy lửa!

Thằng Vọi bò tới hoả lò than, cầm đũa sắt gắp lửa đưa lão ta mồi thuốc. Lão Tư Hưng phà phà khói nói với bác lái già:

- Mẹ! Con nước này chém chết cũng mười tạ cá khoai. Mấy người làm cho hết mình, về tôi cho nhậu say chết cha hết thảy!

Tôi càng lấy làm lạ nữa, về cái câu như vừa nói vừa chửi của lão ta. Chiều xuống dần, nắng rút về phương Tây. Cái nhà ngói trên bãi chỉ còn là một chấm đỏ bằng ngón tay út. Ghe càng ra xa, lão Tư Hưng càng hút thuốc nhiều. Dứt điếu này lão ta mới điếu khác. Không thấy lão cho bác già đằng lái một điếu nào. Đi lâu quá mà vẫn chưa tới chỗ đánh cá, tôi hỏi:

- Đi xa quá vậy?

Lão ta cười, trỏ tận ngoài khơi mù mịt bảo:

- Anh khờ quá, mới có nửa đường thôi. Hôm nay ra tám cây số, có bữa phải đi tới mười một cây. Kiếm tiền cực thấu trời chớ anh tưởng sung sướng lắm sao?

Tôi làm thinh, gẫm lại câu nói của lão thiệt vô lý. Cực thì mấy người đi lưới mướn cực chớ lão ta cực khổ nỗi gì. Này giờ lão ta ngồi trên sạp hút thuốc thơm, cái áo cẩm tự trứng gà chưa dính một giọt nước biển. Nhưng tôi cứ làm thinh ngó ra khơi nữa. Thấy mấy chiếc ghe đằng trước nhỏ xíu mà trong hơi nước biển bốc lên như sương.

Trời đã bắt đầu sụp tối. Nhưng lúc bóng tối chưa úp trọn màu đen của nó xuống khắp biển thì trên trời sao đã mọc lấp lánh. Đêm càng đến thì sao càng bật sáng hơn lên, muôn ức vì sao đếm không hết. Trước mũi ghe, nước biển rẽ ra rực sáng. Những ghe trước đã thôi chạy, hiện lờ mờ một dãy dài. Lão Tư Hưng móc ra cái đồng hồ quả quít có kim sáng, coi và nói to:

- Đúng một giờ đi tám cây số! Thôi, hạ buồm đi!

Thằng Vọi nãy giờ bị gió lạnh, cứ giả cách gầy than, ngồi thủ bên cái hoả lò cho ấm. Nghe tiếng lão Tư, nó ngồi bật dậy như lò so, bỏ ra cột buồm mở dây. Cái rõ rẽ kêu rốc rốc. Bác lái già nương dây cho buồm từ từ hạ xuống. Cả cột lẫn buồm nằm xếp gọn bên phải sạp ghe. Ghe đi lừ đừ, đến cặp song song với một ghe khác. Mười sáu chiếc bắt cặp với nhau. Trên sạp, tiếng phao va lốp cốp, lưới được dàn ra. Hai ghe đánh chung một lưới, hai tay lưới giáp lại thành một, mỗi bên giữ một cáng lưới rồi từ từ buông rời ra.

Đường lưới dài, ghe tếch ra rất lâu mới cuối hết vạt lưới.

Thằng Vọi bây giờ có muốn thủ bên cái hỏa lò cũng không được. Gió, nước thốc vào người, nó ngồi trên be ghe ghì chặt cáng lưới. Bác lái già thấy lưới buông ra rồi, thả chèo, chèo bọc lên. Tôi đợi mãi mà hai ghe vẫn chưa giáp nhau. Bác lái già kêu lên, khi ngó thấy trong vòng lưới, ánh sáng xanh chéo ngược loạn xạ. Những người đi nghề quen như bác biết ngay là đã gặp cá bầy. Lão Tư Hưng mừng được của, nói toáng lên:

- Hồi đi tôi đã biết rồi! Con nước này là con nước kim ngân mà! Cứ làm khá nên, nhứt định lần này về tôi sẽ cho mỗi người một ly rượu. Không phải rượu nếp đâu nghe, rượu anit... anit...!

Hai đầu lưới giáp nhau, thằng Vọi nhấc cáng lưới đưa sang ghe bên kia. Lưới từ từ kéo lên, cá trắng như bạc thật, lấp lánh đều trong các kẽ lưới. Chuyến đầu đã trúng mẻ cá to.

Người bên kia trút cá hết vô khoang, trao lại cáng lưới. Thằng Vọi với lấy, ngồi thụp xuống ghì chặt như trước. Ghe lại rời ra, đi bọc. Trên sạp, lão Tư Hưng cười khà khà. Lão kéo cái giỏ sò huyết lại bên hoả lò. Cái xâu chanh hồi chiều tôi thấy thằng Vọi đeo trên cổ như xâu chuỗi hạt ấy, bây giờ lão sẽ nói ra từng trái, dùng dao con xác hàng chục miếng bày chung với muối tiêu trên đĩa sứ. Lão ta nói với tôi!

- Phải ăn mừng mới được, lại đây anh!

Hễ ai có tiền thì lão Tư Hưng mới mời mọc như vậy. Lão ta phùng mang thổi mấy hơi vô hoả lò. Lửa than đỏ rần rập. Bốc một vốc sò huyết, lão đặt từng con lên cái vỉ sắt hực nóng. Sò huyết kêu eo éo như sôi bụng, một chút sau nắp sò hé bật ra. Lão vắt chanh vào con sò, dùng đũa gắp ra chấm với tiêu ăn. Tôi cùng ăn với lão. Tôi nói:

- Dành cho họ một ít.

Lão vừa nhai ngấu nghiến thịt sò một cách ngon lành vừa đáp:

- Dành gì, tụi nó còn lo lưới chớ!

Tôi ăn có ngon nhưng dường như nhột miệng. Còn lão thì vẫn cứ tiếp tục. Đến lúc cái giỏ đựng sò vơi đi, thì cũng là lưới sắp bọc tới. Những đường sáng xanh lại rạch loạn dưới nước. Lão Tư Hưng vừa ăn và với vẻ hả hê đắc thắng, lão khoe với tôi:

- Một chuyến đi lưới gặp con nước như đêm nay, có thể tạo một cái nhà bát giác nữa... Cho thuê một cái mỗi tháng hai mươi đồng, mười cái mỗi tháng hai trăm...

Hai ghe từ từ xáp lại. Lúc cách nhau độ mươi sải bỗng có một cơn gió luồng thổi vùn vụt. Thắng Vọi nâng cánh lưới đứng dậy sửa soạn trao sang... khi nó với tay tới, bỗng một chân trái nó trượt khỏi ghe. Nó chưa kịp rút chân lên, thì luồng gió đẩy giạt ghe bên kia xô rập vào. Tôi hốt hoảng kêu rú lên. Hai be ghe va nhau một cái dữ dội, kẹp lấy chân thằng Vọi vào giữa. Gió thổi vù vù, tay nó vẫn ghì cáng lưới không dám buông. Rời cái cáng lưới, rớt xuống biển, tức nhiên cá trong lưới sẽ tuột ra hết. Lão Tư Hưng chồm đứng lên. Tiếng thằng Vọi kêu van lão:

- Tôi buông... Cho tôi buông cáng!

Dưới ánh sao, đôi mắt nó thất lạc. Lão Tư Hưng hầu như không nghe tiếng kêu thảm thiết ấy. Lão đang nghe tiếng cá dậy rộn trong lưới... Trước mắt lão hiện ra vô số cá khoai, cá gộc. Cá ấy sẽ cho lão vô vàn giấy bạc. Lão Tư Hưng giậm chân một cái rầm trên sạp ghe. Miệng lão còn đang nhai sò, huyết sò chưa chín ứ ra mép lão như máu người, lão ta gằn từng tiếng:

- Không được buông cáng! Vọi, ráng lên. Đưa cái cáng que ghe mau. Một chút nữa... ráng, ráng!

Thằng Vọi loá cả mất rồi. Nhưng tiếng thúc của lão Tư Hưng dồn dập quá, khiến nó hết sức kinh sợ, cố với tay qua chừng hai gang nữa. Người bên kia vớ lấy được cáng lưới. Lão Tư Hưng mừng húm, lè lưỡi liếm máu sò bên mép, trố mắt nhìn từng vạt lưới kéo lên. Tiếng cá choi trút vô khoang nghe lạch đạch. Lão nghe đến khi cái tiếng lạch đạch dứt rồi mới quay lại. Tôi đã kéo thằng Vọi lên để nằm dài trước mũi ghe, lấy khăn quàng nhắm mắt mà buộc cái chân gẫy rập của nó. Máu ở chân nó chảy tuôn như xối. Cái khăn trắng biến thành màu đỏ.

Tôi với bác lái già giục về gấp. Lão Tư Hưng cúi nhìn và gọi tên thằng Vọi. Nhưng nó đã ngất rồi đâu đáp lại được. Lão Tư Hung nói:

- Về đâu bây giờ, lâu lâu mới gặp cá bầy như vầy. Nó chưa hề gì, dẫu có về, chân nó đã gãy rồi nào có nối liền lại được đâu? Làm ăn không ý tứ thì khiến vậy nó mới tồn. Được rồi, mai cho xe ngựa chở nó lên nhà thương thí! Lão Tư Hưng gọi

lớn:

- Bên kia qua đây bớt một người nghe!

Một anh từ bên ghe kia nhảy sang, thay thằng Vọi.

Đi hai mẻ lưỡi nữa... Lão Tư Hưng mới chịu rúc tù và báo hiệu về. Mười mấy chiếc ghe sửa soạn trở mũi. Từ đó về đến bãi tôi ngồi bên thằng Vọi. Nó có tỉnh mấy lần, sau đó lại ngất đi.

Đến nơi, hai bác dân lưới khiêng nó lên. Tôi xách cây đèn chai đi sau, thấy máu nơi chân thằng Vọi rỏ dài trên cát. Giọt máu nào rơi xuống liền bị cát hút ngay giọt ấy.

Hôm sau lão Tư Hưng sai người chở nó lên nhà thương thí. Trưa đó, tôi cũng ra đón xe ngựa ông Bảy Hân về một cách vội vàng. Xe chạy ngang bãi lưới, tôi dòm xuyên qua cửa, thấy những vết máu đêm hôm rỏ thành một đường dài. Màu máu thấm cát bị nắng hun trọn buổi biến thành màu xám sẫm như màu sét sắt.

*

Mãi đến năm sau, cũng trong mùa nắng ráo, tôi trở lên Hà Tiên, có về bãi Mũi. Ông Bảy Hân vẫn còn đánh xe ngựa như cũ. Sực nhớ đến chuyện xưa trên xe tôi hỏi thăm về thằng Vọi. Ông Bảy Hân cho tôi biết sau khi lão Tư Hưng đem bỏ nó trên nhà thương thí cưa chân, tới chừng lành rồi lão bắt nó trở về đi lưới cho lão như cũ. Má nó bán bánh ếch dành dụm mà không đủ tiền chuộc nó ra. Kể xong, ông Bảy Hân chép miệng, quất con ngựa một roi chạy lồng lên. Ông còn cho biết lão Tư Hưng đã được Tây bổ làm chủ bãi. Đến Bãi Mũi, tôi xuống xe, thấy cái nhà ngói lão Tư Hưng xây lại hai tầng cao nghệu, nóc ngói đỏ au.

Đột nhiên ông Bảy từ trên xe nhảy xuống kéo tôi chỉ về đám người lô nhô cuối bãi, hấp tấp nói:

- Ghe lưới của chủ Hưng sắp ra khơi. Kìa thằng Vọi nó đi sau chót kìa!

Tôi nhìn theo tay ông Bảy Hân. Tuy đã hai năm qua, nhưng tôi nhận ra đúng là thằng Vọi. Cái lưng mốc thích của nó phơi dưới nắng trưa, và tay nó cắp một cây nạng.

Hình như nó đi nạng quen rồi chăng, nên một chốc sau tôi chỉ còn thấy cái dáng đi của nó tập tễnh, mờ dần dưới cuối bãi.

Văn nghệ Trẻ, số 27/1998
Bộ Y tế khuyến cáo biện pháp phòng, chống vi rút gây viêm phổi ở Trung Quốc

Bộ Y tế khuyến cáo biện pháp phòng, chống vi rút gây viêm phổi ở Trung Quốc

Baovannghe.vn - Trước sự gia tăng ca nhiễm vi rút gây viêm phổi ở Trung Quốc, Bộ Y tế đã đưa ra khuyến cáo chi tiết nhằm giúp người dân chủ động bảo vệ sức khỏe
Khai mạc triển lãm mỹ thuật "Bữa tiệc ánh sáng" của họa sĩ Julia Oh

Khai mạc triển lãm mỹ thuật "Bữa tiệc ánh sáng" của họa sĩ Julia Oh

Baovannghe.vn - Chiều 8/1, tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, đã diễn ra Lễ khai mạc Triển lãm Bữa tiệc ánh sáng của nữ họa sĩ Hàn Quốc Julia Oh.
Quan tâm hàng đầu của công nghiệp văn hóa: Nhân lực và bản quyền

Quan tâm hàng đầu của công nghiệp văn hóa: Nhân lực và bản quyền

Baovannghe.vn - Công nghiệp văn hóa - mà chúng ta muốn xây dựng hôm nay khác rất xa với hình dung của vài mươi năm trước, khi mà nhiều quốc gia đã thành công.
Mùi đồng quê

Mùi đồng quê

Baovannghe.vn - Muốn sang thì lên Đà Lạt/ Muốn hốt bạc thì về Bình Tuy/ Bình Tuy có cá Lagi/ Phong Điền có gạo/ Cù Mi có gừng...
Bản tin Văn nghệ ngày 9/1/2025

Bản tin Văn nghệ ngày 9/1/2025

Baovannghe.vn - Lễ hội Pháo hoa quốc tế Đà Nẵng (DIFF) 2025 với chủ đề Đà Nẵng - Kỷ nguyên mới với 10 đội tham gia tranh tài từ ngày 31/5 đến ngày 12/7/2025.