Bởi, dẫu vẫn chưa thực sự hoàn hảo trong tư duy nghệ thuật, phong cách sáng tác và vị trí vững vàng trong dòng chảy văn học dân tộc, song thơ trẻ đã mang đến cho văn học bản địa một luồng gió mới, những sắc màu mới. Hơn 25 năm đầu thế kỉ XXI, đặc biệt khoảng 5 năm gần đây, tính từ năm 2020 đến thời điểm hiện tại, thơ trẻ có những khởi sắc đáng kể. Sau đại dịch - cơn biến động kinh hoàng không chỉ riêng Việt Nam, tiếp đến là thiên tai bão lũ, sự hiện diện của trí tuệ nhân tạo… đã tác động không nhỏ đến tiến trình văn chương. Đặc biệt, đại dịch và thiên tai đã ghim vào lịch sử văn học những trang viết phản chiếu vết thương hiện hữu trên thân thể và trong tâm thức con người. Ở đó, các tác giả trẻ là những người nhạy cảm với thời cuộc, đã bắt nhịp kịp với những chuyển biến của xã hội và phản ánh một cách chân thực, không né tránh sự khủng hoảng và những mong manh của đời sống, mang đến những góc nhìn mới, cảm xúc mới của một thế hệ cầm bút hứa hẹn sẽ kế thừa và tiếp nối xuất sắc thành tựu của thế hệ trước.
|
Thế kỉ XXI, nước ta có những biến đổi to lớn về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Những đau thương, mất mát của nhân dân trong hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm và hai cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới ở thế kỉ XX cũng dần nguôi ngoai, dân tộc hồi sinh với tốc độ mau lẹ, sẵn sàng bước vào kỉ nguyên mới - kỉ nguyên vươn mình. Trong tâm thế đó, văn học nhanh chóng hòa nhập với bối cảnh mới, đóng vai trò phản ánh mọi mặt của đất nước, sát sao với những chuyển biến của xã hội. Không đứng ngoài cuộc, văn học trẻ, đặc biệt là thơ trẻ, đã kịp thời bắt nhịp với dòng chảy gấp rút, bước chuyển vũ bão của đất nước. Riêng các tác giả trẻ - những người nhanh nhạy, sáng tạo và bản lĩnh - đã tỏ ra sôi nổi trước bối cảnh sôi động của đất nước. Từ hiện thực đa chiều đó, ngòi bút các tác giả trẻ đã “thâm canh”, với những phát hiện sâu và mới, cùng với việc tiếp thu và thể nghiệm những phương thức sáng tác mới, lối viết mới, đã tạo nên diện mạo phong phú, đa sắc màu cho văn học đương đại Việt Nam.
Nếu ở văn xuôi, đặc biệt là tiểu thuyết, các tác giả đương đại không ngại thử thách bản thân trong tư duy nghệ thuật hậu hiện đại, lối viết phân mảnh, huyền ảo, giả tưởng, trinh thám… thì ở thơ ca, các tác giả cũng chịu sự ảnh hưởng của những lối viết khác xa cách thể hiện truyền thống như sinh thái, phân tâm học, chấn thương tinh thần, mảnh vỡ, nữ quyền, hậu nhân… nhằm hướng đến bao quát hiện thực cuộc sống và tái hiện bằng phương thức mới mẻ, đưa thơ Việt đến gần hơn, thậm chí đi vào quỹ đạo chung của thơ ca thế giới.
Chưa từng trải qua chiến tranh, song nỗi đau mà chiến tranh để lại vẫn được các tác giả trẻ trưởng thành trong thế kỉ XXI cảm nhận thật trọn vẹn. Từ những chấn thương trên thân thể đến nỗi đau âm ỉ, ám ảnh dai dẳng trong tinh thần của những người đã từng xông pha trong chiến tranh khói lửa hiện lên đầy nhức nhối trên trang viết của các tác giả trẻ. Điều này cho thấy, ở bất kì giai đoạn nào trong lịch sử văn học, chiến tranh cũng là đề tài “ưu việt”, được quan tâm sâu sắc, kể cả khi nó đã thuộc về quá khứ. Lữ Mai, Lê Quang Trạng, Nguyễn Thị Kim Nhung, Phan Duy, Trần Việt Hoàng… là những cây bút thơ trẻ viết rất tốt về đề tài lực lượng vũ trang và chiến tranh cách mạng. Trong đó nổi lên là Lữ Mai - nhà thơ gắn với hình ảnh người lính thời chiến và thời bình. Thật bất ngờ và xúc động, khi trong thời đại hôm nay, Lữ Mai lại dành một nửa sự nghiệp sáng tác của mình cho chiến tranh và người lính. Từ thơ đến các trường ca sử thi như Chư Tan Kra mây trắng, Ngang qua bình minh, Lữ Mai đã làm sống dậy hình tượng người lính trong lòng dân tộc, với những phẩm chất đẹp, những nỗi đau về xác thịt, sự dày vò trong đời sống tinh thần, những ám ảnh khôn nguôi về sự hi sinh, mất mát… Chị đã nhìn đề tài chiến tranh và người lính bằng góc nhìn mới, cảm thức mới, thể hiện bằng một hình thức mới: phân mảnh, huyền ảo, thâm nhập vào thế giới bên trong để bóc tách những nỗi đau dai dẳng “di căn” bên trong mỗi con người cá nhân trong hoàn cảnh đầy thử thách của lịch sử. Trần Việt Hoàng - cây bút trẻ quê ở vùng đất văn chương Hà Tĩnh, cũng thành công với đề tài lực lượng vũ trang. Hiện lên trong thơ anh là người lính, nhưng không phải người lính trong chiến tranh khốc liệt, mà trong thời kì hòa bình, với diện mạo hết sức gần gũi, đời thường: Quân phục binh nhì có nhiều hơn một sắc/ lấm láp tuổi đôi mươi/ băng đạn buổi bắn bồi hồi trước ngực/ hơi thở bầu bạn mùi cỏ non/ đường bay xanh lưng đồi (Phút hình dung). Có thể xem, thơ Trần Việt Hoàng là minh chứng cho những nỗ lực cách tân thơ Việt của người trẻ, khát khao tìm kiếm một cách biểu đạt mới, “lạ hóa” thơ ca từ sự ghép nối những hình ảnh, ngôn ngữ giàu tính biểu tượng.
|
Nhiều năm trước, sự khủng hoảng sinh thái đã trở thành vấn đề báo động nhân loại. Trong thế kỉ XXI, Việt Nam trải qua rất nhiều những thảm họa sinh thái mà nguyên nhân, không gì khác, chính là lòng tham của con người. Cây rừng bị chặt phá, núi đồi bị cắt xẻ, sông cạn, biển dầu, đất đai bạc màu, không khí ô nhiễm do khói bụi từ các nhà máy, xí nghiệp… Tự nhiên bị đẩy ra khỏi vị trí trung tâm, thay vào đó là con người. Văn học, trong đó có thơ, mang màu sắc sinh thái như một phản ứng của người viết với khủng hoảng tự nhiên do cuộc tác động bạo liệt của con người. Lữ Mai, ngoài viết về lực lượng vũ trang thì sinh thái cũng là vấn đề được chị quan tâm hàng đầu. Lũ của của Lữ Mai là câu chuyện về sinh mệnh con người trong sự “nổi giận” của thế giới tự nhiên. Hiện ra trong tác phẩm là khung cảnh thiên tai vùng cao cuốn trôi tất cả mọi thứ, trong đó có những sinh linh bé nhỏ - những kẻ vô tội vạ phải trả giá cho những hành vi mà người lớn gây ra. Lê Đình Tiến - tác giả trẻ chọn lục bát làm thể thơ chủ lực trong hành trình sáng tác của mình. Thơ của anh là suy tư, trăn trở trước tình trạng đô thị hóa diễn ra với tốc độ chóng mặt. Nông thôn trở thành đô thị, khung cảnh tự nhiên bị phá vỡ, thay vào đó là một nền văn minh đô thị, dẫu đem lại nhiều cơ hội cho con người, song cũng để lại nhiều hệ lụy đáng báo động: Làng tôi mất một lối mòn/ Không còn tường cũ, không còn hàng cau (Mây trôi về phía làng). Bùi Bá Đông cũng hòa cùng cảm thức sinh thái trong thơ Việt thế kỉ XXI. Trong thơ Bá Đông, hình ảnh những cánh đồng khô rộp, những dòng sông vốn bồi đắp nên những vùng văn hóa rộng lớn, nay cũng cạn dần: sông đã chết/ còn đâu, sông đã chết/ bỏ con thuyền úp mặt đợi tàn hơi (Mót cạn dòng trôi)… Gắn bó với Huế - xứ sở mà hằng năm hứng chịu những đợt lũ quét, mưa bão triền miên, Nguyễn Lãm Thắng luôn bị ám ảnh bởi thiên tai. Trong thơ anh, các hiện tượng mưa, bão, lũ, sạt lở… trở thành những tín hiệu cho một cuộc khủng hoảng sinh thái đã và đang diễn ra, đe doạ đến tính mạng con người: Không một bàn tay/ Mà xô cây đổ/ Như nanh vuốt hổ/ Bấu toạc đồi xanh (Bão); những ngôi nhà chôn chân trong bùn non/ những ngôi nhà đã mất hồn/ những con người không còn là con người nữa/ những ngõ những đường những bờ những bến trắng bợt da người/ không gian ngập oằn thối rữa/ tang thương mắc cạn dòng đời” (Sau lũ)… Chính các tác giả trẻ đã góp tiếng nói của mình vào vấn đề sinh thái nhức nhối của nhân loại, làm nên tính thời sự trong thơ, bộc lộ những khát vọng nhân văn như hàn gắn vết thương tự nhiên, cảnh báo hiểm họa sinh thái đang đe dọa trực tiếp đến số phận con người và thiên nhiên.
Trong mảng thơ trẻ, đặc biệt là thơ của các tác giả nữ, bên cạnh nữ quyền, chấn thương cá nhân do những tác động khác nhau như chiến tranh, khủng hoảng tự nhiên, bạo hành tình dục, thì âm hưởng hiện sinh cũng là điểm nổi bật, làm nên màu sắc khác biệt trong diện mạo chung của thơ trẻ đương đại. Đáng nói đến là thơ của Nguyễn Thúy Hạnh, chị vừa là một nhà thơ, vừa là một nhà nghiên cứu văn chương. Bởi thế, sáng tác của chị không chỉ là chuyện của bản năng mà còn phản ánh quá trình tích trữ lí thuyết, thâm nhập lí luận, “thâm canh” các tầng tri thức văn học và đời sống. Thơ chị mở ra hình ảnh một người phụ nữ hiện đại dám sống, dám yêu, dám làm những điều mình thích để được hạnh phúc trọn vẹn, mặc dù đôi lúc, lối sống, khát khao đó trái hẳn với những quan điểm truyền thống bản địa: cổ họng mở ra:/ một cánh buồm nhiều múi mở ra:/ một khuôn mặt lộn ngược mở ra/ những tiếng động chuyển rời xuống ngực mở ra/ những âm thanh bơi sải mở ra (Thất ngữ/cuộc tìm kiếm); bụi phủ lên thân anh/ phù phiếm thở/ em phủ lên thân anh/ một đoạn trường trăng (Thiên thanh)… Minh Anh - một cây bút rất trẻ, lấy trí tuệ thay cho trải nghiệm, đã cảm nhận một cách sâu sắc và đa chiều về cuộc sống. Những triết lí trong thơ Minh Anh bắt đầu từ những câu chuyện đơn giản, gần gũi mà ta bắt gặp thường ngày nhưng lại dễ dàng quên lãng. Hơn hết, Minh Anh muốn hướng độc giả đến lối sống tích cực, trân trọng hiện tại, sống hết mình và không ngừng nuôi dưỡng đam mê: chúng ta nhìn vào đốm lửa nhỏ tí tách/ trước khi nó chết chìm trong đêm nặng/ ngọn lửa trở nên tuyệt đẹp/ vì những gợn sáng bồng bềnh còn nán lại/ kéo mắt ta ra khỏi ngọn lửa/ cuộc đời giả định này cũng vậy/ vì cuộc đời mà chúng ta phải sống/ ngay trước đôi mắt mình (Hệ thống)… Như vậy, thơ của các tác giả nữ được nhắc đến ở trên không chỉ là tiếng lòng cá nhân mà còn là sự phản hồi mạnh mẽ trước các vấn đề thời đại, góp phần hình thành diện mạo thơ trẻ giàu trí tuệ và đa sắc màu.
Tình yêu - đề tài muôn thuở của nhân loại, cũng có sức hút đặc biệt với các tác giả trẻ, tạo thành một sắc màu độc đáo trong thơ đương đại. Trong thơ trẻ, dù là tình yêu vỡ tan, xót xa và u uất hay một tình yêu trọn vẹn, viên mãn, cũng được thể hiện bằng những giọng điệu riêng, đầy ắp những cảm xúc chân thành, mãnh liệt và những khám phá mới mẻ về thế giới nội tâm của những người đang yêu. Có thể nói, tình yêu là mảng đề tài chiếm tỉ lệ cao nhất trong thơ trẻ nói chung. Lữ Hồng, Phan Duy, Trần Văn Thiên, Đào An Duyên, Bùi Tiểu Quyên… là những cây bút dành sự ưu ái cho đề tài tình yêu trong sáng tác của mình. Trong đó, thơ Lữ Hồng là tiếng thơ của người con gái miền cao đầy khát vọng, ước ao được hòa mình vào giai điệu nồng cháy của tình yêu, song cũng đầy những âu lo, trăn trở về một cuộc đổ vỡ không mong muốn: Em sẽ tiễn anh như thơ tiễn mùa thu/ như thể mình chưa từng có ngày vì nhau mà thở/ đừng trách bãi bờ phận bồi phận lở/ ta vẫn còn nhau một lối để quay về (Em sẽ tiễn anh như thơ tiễn mùa thu). Bùi Tiểu Quyên vốn là một nhà văn, nhà báo, song chị cũng có vần thơ làm lay động trái tim người đọc. Thơ tình yêu của Bùi Tiểu Quyên có màu sắc truyền thống, mang âm hưởng của sự giao hoà giữa riêng và chung, giữa lứa đôi với cộng đồng, đề cao trách nhiệm hơn việc hưởng thụ niềm vui riêng: Khi chúng mình yêu nhau/ Bàn tay nắm lấy bàn tay/ Nhớ lớp lớp người người đã từng hạnh phúc đã từng mất mát/ Lớp lớp người người đã từng khóc và từng hát/ Lớp lớp người người đi qua, gặp nhau, yêu nhau và ngã xuống/ Cho lớp lớp người người lại đi tìm nhau/ Cho em tìm thấy anh/ Cho tình yêu trong muôn kiếp người mãi nối dài màu xanh (Mặt đất và bầu trời). Hiện lên trong thơ Đào An Duyên là “cái tôi” cô đơn trong tình yêu, là những mảnh rời rạc, khó có thể kết nối với nhau dù chủ thể trữ tình luôn đầy ắp những khát vọng được yêu hết mình, nhiệt thành và dung thứ: Quả thị treo vào mùa thu/ Em treo anh vào nỗi buồn năm tháng/ Cây thập tự đời mình/ Đóng kinh mấy kiếp ăn năn… (Phức cảm thu)…
Bên cạnh những đề tài trên, tình yêu quê hương đất nước, tấm lòng thiết tha với văn hoá truyền thống của đất nước, tình yêu gia đình, xóm làng… cũng là những đề tài phổ biến, chảy mãi trong mạch nguồn của văn chương dân tộc, được các tác giả trẻ thể hiện bằng một diện mạo mới mẻ, độc đáo. Phan Duy, Phát Dương thiết tha với vùng đồng bằng châu thổ Cửu Long Giang, với những sông, nước, ghe, xuồng, cụm lục bình, con cá linh non, mùa nước nổi… Cảm thức nước đã chi phối và thấm đẫm toàn bộ không gian nghệ thuật trong tập thơ Xứ nước của Phát Dương. Các bài thơ trong Xứ nước chủ yếu được viết bằng thể thơ năm tiếng gần gũi, dễ đọc, dễ nhớ, dễ mô phỏng cách sống và lời ăn tiếng nói thường ngày của người dân vùng sông nước Cửu Long: Hình như ở xứ này/ Khắp nơi toàn là nước/ Mùa nặng trĩu bóng mây/ Cơn mưa rơi đổ thác/ Bao nhiêu mưa nặng hạt/ Vào mương, ao cạnh nhà/ Vào vườn đồng kênh rạch/ Vào con sông ngang qua (Xứ này toàn là nước). Phan Duy đã gọi vùng đất Tây Nam Bộ là “khoảng trời gọi nhớ thương”, trong đó, những đặc trưng về thiên nhiên, thời tiết, những giá trị văn hóa, những ký ức đồng bằng… đã được anh góp nhặt vào thơ. Thơ Phan Duy là sự kiến tạo những biểu tượng văn hóa vốn dĩ thoát thai từ không gian văn hóa bản địa: cây bẹo lửng lơ như dân mình phóng khoáng/ xuôi ngược sông hồ/ chung thủy đến ruột gan (Nhánh quê); chiếc xuồng be tám dùng dình ghẹo sóng/ chiếc sào dài/ đo lòng sông (Mùi quê hương)… Hồ Huy Sơn với những vần thơ viết về những vùng miền khác nhau trên đất nước, về làng mạc, về hải đảo từ bao đời đã đi vào tâm thức dân tộc. Nét độc đáo trong thơ Hồ Huy Sơn là sự ngô nghê đầy dụng ý trong giọng điệu, bởi lẽ đó, thơ anh dễ đi vào lòng người đọc, nhất là độc giả thiếu nhi: Ở đây không có núi/ Cũng không có cánh đồng/ Chúng mình sống trên đảo/ Giữa biển trời mênh mông” (Học trò ở đảo), Chiều về thật nhiều gió/ Lùa trâu lên triền đê/ Chúng em cùng hò hét/ Theo cánh diều mải mê (Diều quê)… Thơ Lê Quang Trạng, Nguyễn Đức Phú Thọ giàu hình ảnh biểu tượng, có sức gợi lớn lao, mở ra không gian của một vùng nông thôn hiền hòa và những con người với phẩm chất tốt đẹp, biết trân trọng cội nguồn, truyền thống: chợt nhớ con sáo nơi này gọi đò ơi/ con nước đầy vơi/ con đò sang sông rồi trở lại/ hỏi mới biết/ con sáo già đã chết/ tội nghiệp con sáo cả đời/ nó đâu gọi đò cho nó sang sông (Con sáo gọi đò, Lê Quang Trạng); Cây đước đắm mình, giữ dòng trôi/ thời gian bơi trên đuôi mắt người/ mẹ tôi về cùng với cỏ cây/ xanh tình yêu/ năm tháng (Đôi mắt cánh đồng, Nguyễn Đức Phú Thọ)… Tất cả đã mang đến cho thơ trẻ diện mạo đa dạng, những sắc màu mới, xúc cảm mới, đưa thơ trẻ Việt lên một tầm cao mới.
Không phải ngẫu nhiên mà Mai Văn Phấn, trong bài viết Đôi nét về thơ trẻ Việt Nam đương đại (đăng trên báo Văn nghệ, tháng 2 năm 2025) lại gọi thế hệ thơ trẻ Việt hôm nay là “làn sóng thứ ba”, làn sóng thừa hưởng thành quả từ “làn sóng thứ hai” và “làn sóng thứ nhất”, vốn trưởng thành từ trong chiến tranh và những năm tháng đất nước vừa mới thống nhất, vấn đề đặt ra cho văn học lúc ấy là “đổi mới”. Nói như vậy có nghĩa rằng, Mai Văn Phấn nói riêng, các nhà nghiên cứu nói chung, đã thừa nhận tài năng của các tác giả và vị trí của thơ trẻ trong dòng chảy văn học Việt.
Ở bất kì thời điểm nào, thơ trẻ (và văn học trẻ nói chung) cũng được ưu ái, quan tâm và ươm mầm, chăm chút. Khi một tác giả trẻ xuất hiện, hẳn giới văn chương đều dành cho họ sự kì vọng rất lớn, bởi có khả năng, các tác giả trẻ có thể làm mới nền văn chương nước nhà, nhất là khi các cây bút gạo cội không còn cầm bút sáng tác hoặc bị giới hạn trong tư duy nghệ thuật, sức sáng tạo. Tuy vậy, kì vọng không đồng nghĩa với việc ca ngợi, tâng bốc quá đà. Nhiều trường hợp một cây bút trẻ được đề cao, nâng tầm trong khi họ hạn chế về năng lực, dẫn đến sự chủ quan, ảo tưởng về vị trí, khiến cây bút trẻ dần đánh mất chính mình và trở nên sai lạc trong tư duy về văn chương, nghệ thuật.
Từ nỗ lực của từng cá nhân đến sự quan tâm, chăm bồi của Đảng và Nhà nước, Hội Nhà văn Việt Nam, thơ trẻ trong những năm gần đây đã thu được những “mùa vàng”. Gọi là những “mùa vàng” thay vì “khởi sắc”, bởi ngay trong những năm tháng chiến tranh khói lửa của thế kỉ XX, thơ trẻ cũng đã “khởi sắc” từ hiện thực ngổn ngang của đất nước. Bước sang thế kỉ XXI, thơ trẻ có điều kiện phát triển hơn, các cây bút trẻ cũng được quan tâm nhiều hơn. Văn học nghệ thuật đi sâu vào đời sống đại chúng, trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu, đồng thời cũng là “mã gen văn hóa”, truyền đời những phẩm chất riêng biệt, đáng trân quý của dân tộc. Hội nghị Những người viết văn trẻ toàn quốc được tổ chức theo chu kì là minh chứng cho sự quan tâm sâu sắc đó, ngoài ra cũng là một hình thức “đốt lò” nhen nhóm tình yêu văn chương cho người viết trẻ, để họ thấy rằng viết văn, làm thơ không chỉ là chuyện của tình cảm, cảm xúc, của sở thích cá nhân, mà còn là sứ mệnh, trách nhiệm của người cầm bút. Trong diện mạo của thơ trẻ thế kỷ XXI, không thể không nhắc đến những cái tên như Trần Võ Thành Văn, Lữ Mai, Ngô Thuý Nga, Trần Đức Tín, Lữ Hồng, Vân Phi, Phan Duy, Hồ Huy Sơn, Tiểu Quyên, Đào An Duyên, My Tiên, Vĩnh Thông, Nhiên Đăng, Trần Văn Thiên, Trần Phú Minh Anh… Họ đến từ những vùng đất khác nhau, trải nghiệm sống khác nhau, nhưng gặp nhau ở tình yêu thơ ca và những khát khao làm mới một nền thơ vốn có truyền thống từ lâu đời, bắt rễ sâu vào đời sống dân tộc.