Diễn đàn lý luận

Dấu ấn tiên phong của Gia Định báo và Nông cổ mín đàm trong văn hóa chữ Quốc ngữ

Trần Huỳnh Tuyết Như
Lý luận phê bình 09:00 | 08/07/2025
Từ một tờ công báo phục vụ chính quyền thuộc địa, Gia Định báo và Nông cổ mín đàm đã dần trở thành nơi gieo mầm cho những thể loại văn học - báo chí hiện đại đầu tiên ở Việt Nam. Bài viết nhìn lại tiến trình định hình thể loại, từ tin vắn, tiểu phẩm, tường thuật đến cải lương và phóng sự, như một minh chứng cho sự giao thoa giữa văn hóa bản địa và ảnh hưởng phương Tây trong buổi đầu hiện đại hóa báo chí và văn học nước nhà.
aa

1. Gia Định báo, nơi xuất hiện những thể loại văn học mới

Thời điểm Gia Định Báo ra đời vào năm 1865, báo chí phương Tây đã có quá trình phát triển gần 260 năm. Sự xuất hiện của báo chí tại các quốc gia tư bản như Anh, Pháp, Đức, Mỹ, Hà Lan, Tây Ban Nha... là một bước ngoặt có tính chất quan trọng. Song hành cùng sự phát triển của xã hội, báo chí đã trở thành một ngành công nghiệp với quy mô phát triển rộng khắp, đem lại nhiều hiệu quả kinh tế cho các quốc gia phương Tây thời điểm bấy giờ.

Theo thống kê của các nhà nghiên cứu, vào năm 1856, ở Anh đã có đến 1.300 tờ báo với đa dạng các thể loại. Đến năm 1865, ở Pháp, riêng tờ La Petit Journal của Moise Millaud phát hành 260.000 bản/kỳ2. Ngoài ra, sự xuất hiện của các hãng thông tấn quốc tế có độ lan tỏa cao như Havas của Pháp (1835), AP của Mỹ (1848), Reuters của Anh (1851)... Vào khoảng giữa thế kỷ XIX, báo in đã bắt đầu tiến trình phát triển của mình. Cũng theo đó, các hình thức cơ bản của báo chí lần lượt ra đời và ngày càng hoàn thiện.

Đi cùng xu thế phát triển của thời đại, đội ngũ các tác giả làm báo ngày một trở nên chuyên nghiệp hơn cả năng lực viết lẫn khả năng khai thác đề tài. Bên cạnh đó, giới công chúng cũng hình thành thói quen đọc và viết trong thời đại mới. Cũng từ đấy, hệ thống các thể chế, chuẩn mực trong việc làm báo được đội ngũ học giả quy phạm hóa trở thành những kiến thức hàn lâm để giảng dạy cho đội ngũ tác giả làm báo trẻ.

Tại Việt Nam, như một quy luật tất yếu của làn sóng xâm lược phương Tây tại các quốc gia Đông Á và Đông Nam Á, báo chí đã bắt đầu manh nha hình thành. Tuy không nhận được sự đón nhận tích cực của người dân bản xứ nhưng báo chí lại có một vị trí cực kỳ đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam. Như chúng ta đã biết, tại các quốc gia thuộc địa, bảo chí đều mang tính chất quan phương, chuyên đăng tải các tin tức, công văn của chính quyền thuộc địa. Chính những tác động tiêu cực về chính trị đã khiến báo chí Việt Nam ở thời kỳ đầu không giữ được tính chất của một tờ báo đơn thuần mà trở thành công cụ phục vụ cho chế độ thực dân.

Trong khoảng thời gian đầu tiên (1865-1869), Gia Định Báo, tuân thủ theo quy luật ấy, được chia thành hai phần: phần chuyên đăng tải công văn, nghị định, tài liệu chính thức và phần tạp trở dùng để đăng tải các tin tức trong nước, nhằm phục vụ cho mục tiêu tuyên truyền, phổ biến hệ thống các thông tin, văn bản của thực dân Pháp. Diện mạo ban đầu của Gia Đính báo vốn không hẳn là một ấn phẩm báo chí mà chỉ là diễn đàn chuyên đăng tải các thông tin cần thiết cho độc giả. Chính vì thế, khi xét về đặc điểm riêng của báo chí nói chung, đặc biệt là khía cạnh về thể loại nói riêng ở Gia Định báo và các tờ báo bằng tiếng Pháp ra đời trước đó, vẫn chưa được phát huy.

Dấu ấn tiên phong của Gia Định báo và Nông cổ mín đàm trong văn hóa chữ Quốc ngữ
Gia Định Báo. Ảnh: Bibliothèque nationale de France.

Tuy nhiên, khi Trương Vĩnh Ký bắt đầu làm chủ bút, tờ Gia Định báo đã có những chuyển biến tích cực cả diện mạo và nội dung theo cách hướng về đại chúng, chọn phục vụ cho con người với tư cách là một sản phẩm tinh thần của con người trong thời đại văn minh. Theo khảo sát của chúng tôi, kể từ năm 1869, ngoài hai phần trên, Gia Định báo đã cho đăng tải những bài nghiên cứu về lịch sử, truyện cổ tích, thơ. Đồng thời, tờ báo này cũng cho đăng lại các truyện trong tập Chuyện đời xưa, Chuyện khôi hài của Trương Vĩnh Ký, Chuyện giải buồn của Huỳnh Tịnh Của, các thiên du ký bằng thơ song thất lục bát gồm 2000 câu thơ của Trương Minh Ký, điển hình như Như Tây nhựt trình (1889) và Chư quấc thại hội (1891). Các tác phẩm này, dù được sưu tầm hoặc sáng tác, đều được viết bằng chữ Quốc ngữ, một hình thức ngôn ngữ mới và cách hành văn theo lối khẩu ngữ đời sống thường ngày tạo cảm giác dễ tiếp nhận cho độc giả. Sự đổi mới không ngừng của tờ báo là động lực thúc đẩy các thế hệ trí thức Việt Nam tích cực làm báo, giúp nền báo chí nói riêng và văn học nói chung phát triển mạnh mẽ. Nó nằm trong quy luật dung hợp và tiếp nhận các hình thái và sản phẩm văn hóa ngoại lai của các dân tộc - một hiện tượng phổ biến trên phạm vi toàn cầu.

Dấu ấn tiên phong của Gia Định báo và Nông cổ mín đàm trong văn hóa chữ Quốc ngữ
Trương Vĩnh Ký. Ảnh: Bibliothèque nationale de France.

Nhìn chung, do đặc trưng của một tờ Công báo nên cấu trúc nội dung của Gia Định báo thường được chia thành hai phần: phần thực hiện nhiệm vụ thông báo, trở thành cơ quan ngôn luận của nhà cầm quyền (công vụ) và phần đáp ứng nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ, tạo nên sức thu hút cho độc giả. Theo khảo sát trên Gia Định báo suốt 44 năm tồn tại và phát triển (1865-1909), chúng tôi nhận thấy sự tồn tại của hệ thống thể loại cơ bản bao gồm: tin, tường thuật, phóng sự, tiểu phẩm báo chí…

Như bất kỳ tờ báo nào, sự tồn tại của những mẩu tin là điều kiện tất yếu nhằm để truyền tải thông điệp, thu hút sự quan tâm của độc giả đến các vấn đề chính trị, văn hóa và xã hội. Được mệnh danh là “mũi tàu thông tin” của nhật báo, những mẩu tin giúp độc giả và công chúng yêu văn học phân biệt báo chí với các trang thông tin khác không phải báo chí. Chuyên mục Tin dây thép Havas là một trong những nội dung thu hút độc giả thích quan tâm những vấn đề thời sự trong và ngoài nước lúc bấy giờ. Xuất phát từ hãng thông tấn Havas – hãng thông tấn tư nhân của Pháp chuyên độc quyền khai thác và cung cấp tin tức cho khu vực Đông Dương, các mẩu tin được bố trí thành một chùm tin, có tiêu đề chung, nhằm cung cấp thông tin nhanh chóng đến độc giả. Chẳng hạn như mục tin vắn ra số 30/5/1885 bao gồm ba tin vắn như sau:

  • Victor Hugo chết
  • Giấy hòa ước tại Huế chuẩn định rồi.
  • Phòng hội nghị đã bắt thăm việc binh Bộ thủy qua bộ binh.

Không chỉ có những tin vắn về mặt chính trị, phần ngoài Công Vụ còn bao gồm những tin tức tổng hợp về nhiều lĩnh vực trong đời sống như thông tin về bán đất, cấp đất, đấu giá nhà cửa, vật liệu, tuyển dụng người làm việc, thể thức thi cử, giờ tàu xe… Điển hình như các mẩu tin vắn đăng trên Gia Định báo, số ra ngày 1/7/1882:

  • Ngày 14 Juillet, 9 giờ rưỡi tối, quan Khâm mạng sẽ tiếp khách.
  • Tại chuồng ở Chợ - lớn, có nhốt một con trâu đi lạc.

Tin vắn trên Gia Định báo đa phần không có tiêu đề (titre), lối viết còn khá đơn giản, mộc mạc, chưa chú ý nhiều đến cấu trúc cũng như cách thu hút độc giả nhưng nhìn chung lại rất sinh động, thu hút và dễ đọc. Mục tin vắn cũng phản ánh tư duy đơn giản, logic nhưng phù hợp với đối tượng độc giả thời kỳ đó hơn. Rõ ràng, dù ngay từ thời kỳ đầu phát triển nhưng Gia Định báo đã xem trọng tiêu chí hữu dụng và bổ ích với quý độc giả như những tờ báo hiện đại ngày nay.

Bên cạnh đó, dù là một tờ Công báo chuyên cung cấp những thông tin chính luận nhưng phần công vụ trên Gia Định báo không khô khan, đơn điệu như một số văn bản hành chính khác, mà ngược lại nhờ có các chuyên mục đặc sắc như Nhóm Hội đồng Quản hạt, chuyên đăng tải nguyên văn nội dung các phiên nghị sự của hội đồng này. Khi xem xét ở lĩnh vực thể loại, có thể khẳng định rằng Nhóm Hội đồng Quản hạt thường bao gồm những bài tường thuật theo kiểu tốc ký của báo chí Việt Nam thời kỳ sơ khai. Từ việc là bài tường thuật chuyên quan sát diễn tiến của sự việc, các bài viết trên Gia Định báo ngày một trở nên sinh động và linh hoạt, thậm chí khai thác chi tiết vào những vấn đề vụn vặt ở từng địa phương, điển hình như Chuyện về một người nghèo phải chịu nhiều sự gian nan, sau mới được sang giàu (số 2, 1867), Chuyện bên Long Thành (số 3, 1867), Chuyện về cây mắc cỡ (số 5, 1868)…

Ngoài ra, trên tờ Gia Định báo, còn có một số bài có thể xếp vào dạng tường thuật như một số các báo cáo, những mẩu tin tường thuật tin tức ở nước ngoài về diễn biến cuộc chiến tại Việt Nam nói riêng và Đông Dương nói chung như Này là nhựt trình Hồng – Kông Daily press kể chuyện lấy Sơn – tây ra thế nào (số ra ngày 12/1/1884) nhằm kể lại diễn biến cuộc xâm lược của thực dân Pháp đánh vào Sơn Tây, Thư của Thống binh Bắc kỳ Briève gởi cho quan khâm mạng Saigon ngày 9/10/1884 (số ra ngày 18/10/1884), nhằm thuật lại tình hình Pháp thắng giặc Trung Hoa ở phía Đông Bắc…Tính đa dạng, linh hoạt về thông tin tạo nên nét thu hút cho chuyên mục tường thuật, giúp độc giả có được một góc nhìn đa dạng, nhiều chiều hơn về tình hình chiến sự tại Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung.

Dẫu chỉ mang tính chất sơ khai, chủ yếu thiên về yếu tố trần thuật lại diễn biến của một câu chuyện nhưng những bài viết này được xem là mô hình sơ khai của phóng sự, đánh dấu sự ra đời của thể loại văn học mới này trong tiến trình chung của văn học hiện đại. Nhìn chung, phóng sự là một thể loại manh nha từ mối quan hệ giao thoa giữa văn học và báo chí. Ở phóng sự, người viết ngoài mục đích cung cấp những thông tin về người thật việc thật hoặc các sự kiện có giá trị đặc biệt trong đời sống, đồng thời còn phân tích lý lẽ, lồng ghép thêm cảm xúc sao cho phù hợp với hệ thẩm mỹ và tư tưởng cộng đồng. Với những ưu điểm trên, phóng sự đã trở thành một thể loại văn học phổ biến, tạo được độ lan toả nhanh chóng ở hầu hết các quốc gia phương Tây từ cuối thế kỷ XIX.

Trong đời sống báo chí và văn học Việt Nam, sự ra đời của phóng sự là một điểm nhấn quan trọng, thể hiện sự phát triển về thể loại trong tiến trình hiện đại hoá văn học ở thế kỷ XX. Phóng sự không chỉ là kết quả được tiếp thu từ quá trình giao lưu, tương tác với nền văn hoá, văn học phương Tây mà còn thể hiện sự kế thừa có tính chọn lọc từ văn học truyền thống với đặc trưng của các thể ký ghi chép, ký và ký sự. Đó là lí do trong quá trình viết, các tác giả chủ yếu ngoài việc tường thuật các sự kiện được tận mắt chứng kiến, mang tính thời sự, gắn liền với đời sống thực tế, vẫn cần có góc nhìn, quan điểm riêng cũng như khả năng trần thuật, bút pháp kể chuyện sinh động của bản thân. Đây cũng là điểm xuất phát cho việc hình thành khả năng quan sát, tư duy sáng tác văn chương hiện đại của đội ngũ các nhà văn hiện đại.

Khác biệt với các thể loại khác như tiểu thuyết, truyện ngắn đòi hỏi độc giả cần tập trung nhiều thời gian và tư duy để thấu hiểu, thể loại phóng sự thường hướng trực diện vào đời sống, khai thác các câu chuyện thực tế, mang đến niềm tin cho độc giả về sự trung thực của người cầm bút. Nắm bắt được tâm lý tiếp nhận đó, các nhà văn đã trực tiếp tham gia viết báo kể lại những câu chuyện có thực hàng ngày mà họ trực tiếp chứng kiến. Các bài viết của các nhà văn mới này không chỉ đơn giản mô tả “các kỳ họp quốc hội, những đám cháy, những trận lụt” nữa, mà thêm vào đó là những thông tin chi tiết, sinh động về diễn biến của những sự kiện có ý nghĩa xã hội, đi kèm với lời bình luận mang đến góc nhìn đa dạng, nhiều chiều hơn cho độc giả.

Điển hình như chuyên mục Tin dây thép Havas với những sự kiện xã hội được ghi lại một cách chính xác và ngắn gọn. Điển hình như số 26 ra ngày 27 tháng 6 năm 1885, chuyên mục này đưa tin:

Paris, ngày mồng 4 juin, 4 giờ chiều,

Chôn ông Vitor Hugo rồi, thiên hạ tới đưa rất đông đảo dị thường (Khuyết danh, 1885, tr.2).

Hoặc như thông tin về cuộc chiến giữa hai phe xâm lăng và chống xâm lăng cũng được tường thuật lại trên Gia Định báo. Điển hình như ở Gia Định báo, ra ngày 12/1/1884 có đăng bài tường thuật về quá trình đánh chiếm thành Sơn Tây của quân Pháp, diễn ra trong khoảng thời gian từ ngày 13 cho đến 16/12/1883.

Các đạo binh Langsa đã vào mà lấy đặng Sơn Tây rồi, là ngày 16 decembre, sau khi thơ tôi đã gởi đi lần sau hết ấy. Ngày 14, các tàu neo tại trông một chỗ ngã sông, xa thành chừng 1.000 thước, mà khởi sự bắn trái phá lên thành. Ước chừng 3.000 binh bộ lên thành còn chừng 3.000 thì đi thủy. Súng lớn trên bờ cùng dưới tàu đều bắn một lượt cho tới hai ngày hai đêm… (Khuyết danh, 1884, tr.2).

Đây có thể được xem là một mẩu tin tường thuật về chiến sự rất điển hình trên Gia Định Báo, nó không chỉ có giá trị thông tin với người đương thời mà còn là tư liệu quí về lịch sử, ngôn ngữ, văn phong báo chí với hậu thế. Các tác giả viết phóng sự thường sẽ đến tận nơi hoặc nghe tường tận cặn kẽ về một mẫu chuyện sinh hoạt, nghề nghiệp, nhân vật có thật nào đó rồi cứ thế dựa trên khả năng tường thuật của mình mà ghi chép trên mặt báo. Những bài viết đó vừa “chật ních” những sự kiện nóng hổi, vừa cung cấp cho bạn đọc những sự kiện từ nhiều góc nhìn khác nhau với những hiểu biết sâu sắc về xã hội, con người, bằng cảm xúc thương cảm hay căm ghét, chê trách. Đội ngũ viết những mẩu tin tường thuật trên Gia Định báo thời kỳ này, dẫu chưa thật sự hiểu rõ về thể loại này, nhưng đã rất nhạy bén trong việc quan sát, ghi chép các diễn biến thời sự trong nước, tạo nên các phản ứng tích cực trong dư luận xã hội, đáp ứng kịp thời tinh thần đổi mới tư duy hiện đại.

Đội ngũ những cây bút chuyên viết phóng sự trên báo chí thời kỳ đầu nếu kiên nhẫn và tỉ mỉ trong quá trình đặt góc nhìn và khai thác các tin tức trong đời sống, có thể dần dà trở thành các nhà văn chuyên viết tiểu thuyết phóng sự như trường hợp của nhà văn Vũ Trọng Phụng sau này. Có thể thấy rằng, trong thời kỳ bất phân giữa báo chí và văn học, sự xuất hiện của các ghi chép theo kiểu “mắt thấy tay nghe” này đã tại tiền đề đặc biệt cho sự phát triển của thể loại phóng sự, góp phần trở thành nhịp cầu vững chắc kết nối báo chí và văn chương.

Tính phong phú về nội dung và cách lựa chọn về đề tài ở Gia Định báo còn được mở rộng hơn ở thời điểm tờ báo bắt đầu xuất hiện mục thứ vụ chuyên đăng tải các bài có tính chất khoa học và văn chương. Hàng loạt những bài đăng trên nhiều số báo liên tục như Luận về cầm thú (12 số, từ 1/9/1883 đến 24/11/1883), Tổng luận về các loại kim (13 số, từ 26/1/1884 đến 19/4/1884), Về sự trồng gai bố (2 số, ngày 1/3/1884 và 8/3/1884)…với nguồn thông tin ngắn gọn đã cung cấp cho độc giả những kiến thức bổ ích, đáng tin cậy không khác gì các thể loại hồ sơ (file – biên khảo báo chí) trên một số tờ nhật báo hiện nay.

Các tiểu phẩm báo chí mang đậm tính hài hước, chế giễu sâu sắc cũng bắt đầu xuất hiện trên Gia Định báo như Người đàn bà và sự kín (số ra ngày 2/12/1882), Nước diệu kỳ (số ra ngày 17/3/1883), Đứa con gái (số ra ngày 8/4/1884)… Dù không phải là truyện cười hoặc truyện ngụ ngôn nhưng các tác phẩm này lại chứa đựng tính chất khôi hài, châm biếm sâu sắc về những mâu thuẫn nghịch lý trong xã hội cũng như nhiều thói hư tật xấu của con người. Tính phê phán xã hội mang đậm chất thời sự đi cùng các yếu tố hài hước, các biểu tượng hàm súc mang đậm chất nghệ thuật từ các sáng tác trên khiến độc giả có thể nghĩ đây là những tiểu phẩm báo chí ở giai đoạn sơ khai, góp phần làm nền cho sự phát triển của thể loại này về sau này.

Có thể thấy rằng các chuyên mục văn chương khi được hình thành trên Gia Định báo đã góp phần giúp độc giả thư giãn với những mẫu chuyện hài hước với hệ thống tình tiết đơn thuần, không quá rườm rà, tập trung vào mục tiêu răn dạy những điều hay lẽ phải và kích thích nhu cầu đón đọc nhật trình của công chúng. Tuy nhiên, không chỉ dừng ở phạm vi giải trí, độc giả thông qua việc thưởng thức các tác phẩm văn học trên Gia Định báo, đã có dịp làm quen với hình thức, cách viết văn hiện đại, chịu ảnh hưởng từ văn hoá phương Tây. Khởi nguồn từ các tác phẩm văn học dịch như Truyện Phansa diễn ra Quốc ngữ (dịch Fables de la Fontaine), Châu Tử gia huấn (dịch Les Aventures de Télémarque của Fénelon), Lục súc tranh công (phiên âm chữ Nôm ra Quốc ngữ), Nhị thập tứ hiếu (phiên âm chữ Nôm ra Quốc ngữ), Quốc Phong (dịch thơ Quốc phong rút ra từ Kinh thi) cho đến các tác phẩm phóng tác, thể hiện tinh thần học hỏi, kế thừa kinh nghiệm sáng tác của đội ngũ nhà văn như Phú bần truyện diễn ca (dịch từ Pháp văn Riche et Pauvre), Như Tây Nhựt Trình (sáng tác thiên du ký bằng thơ)… Đó không chỉ là cách để truyền động lực, khuyến khích đội ngũ tác giả dần dần hình thành khát vọng đổi mới nền văn học nước nhà mà còn hé mở cho chúng ta nhận thấy được lộ trình của quy luật hiện đại hoá nền văn học nước nhà, khi bắt đầu đi từ dịch thuật, phóng tác đến sáng tác. Bên cạnh đó, qua các tác phẩm văn học được chọn đăng trên Gia Định báo, độc giả và đội ngũ sáng tác cũng có cơ hội được tiếp xúc và làm quen dần với văn học phương Tây, tạo cơ sở cho việc khai phóng tư duy, đánh thức những khát vọng sáng tạo, góp phần đổi mới nền văn học nước nhà.

Nhìn chung, chúng ta có thể tìm thấy đầy đủ các thể loại đặc trưng ở báo chí hiện đại ngay trên tờ Gia Định báo từ thông tấn, văn chính luận, kí, tin tức cho đến tiểu phẩm, phóng sự… Dù tất cả thể loại này nhìn chung đều mang tính chất sơ khai, khá mộc mạc và hồn nhiên, chưa phân biệt rõ ranh giới với nhau nhưng chúng đã làm nên một diện mạo khá đầy đủ về báo chí Việt Nam thời kỳ đầu. Sự đổi mới về nội dung trên Gia Định Báo mang ý nghĩa quan trọng bởi nó tạo ra cơ hội cho tầng lớp trí thức địa phương có tiếng nói trên mặt báo, khai phóng “tháp ngà” vốn mặc định là chỉ được sử dụng bởi tầng lớp tinh hoa Hán học. Hướng đổi mới trong việc đa dạng hoá các chuyên mục trên Gia Định báo cũng góp phần tích cực trong quá trình phổ biến chữ Quốc ngữ, phản ánh những nét đặc sắc trong đời sống tinh thần của người Nam Bộ, bảo lưu và phổ biến giá trị văn hoá dân tộc qua những bản sưu tầm các truyện cổ dân gian, đặt nền móng cho tính đa dạng về thể loại và phục vụ nhiều đối tượng độc giả, hỗ trợ cho sự phát triển của văn chương hiện đại về sau này. Cũng qua đó, chúng ta sẽ có hình dung đầy đủ hơn về diện mạo và những đóng góp có giá trị to lớn của Gia Định báo trong tiến trình phát triển báo chí, văn chương và chữ Quốc ngữ Việt Nam vào giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

2. Đóng góp của Nông cổ mín đàm trong việc cỗ vũ cho sự phát triển của các loại hình nghệ thuật sân khấu

Không chỉ song hành cùng bước tiến của văn học thời đại, đội ngũ những người làm báo ở Nông cổ mín đàm cũng đặc biệt quan tâm đến hát bội và cải lương. Đó cũng là lí do độc giả có thể tìm thấy nhiều bài viết khẳng định vai trò cũng như chia sẻ nhiều suy ngẫm về hai di sản nghệ thuật này trong hành trình giữ gìn và phát huy văn hoá truyền thống dân tộc.

Dấu ấn tiên phong của Gia Định báo và Nông cổ mín đàm trong văn hóa chữ Quốc ngữ
Tờ báo "Nông Cổ Mín Đàm" ra đời năm 1901.

Người tiên phong đi đầu phát ngôn cho việc cải cách hát bội thành “cuộc hát cải lương” chính là Lương Khắc Ninh, chủ bút của Nông cổ mín đàm. Vốn là một người rất yêu hát bội, từng thành lập gánh Hát Bội Châu Luân ban ở Sài Gòn (1905), Lương Khắc Ninh đã từng có buổi diễn thuyết tại nhà Hội khuyến học Sài Gòn về cải lương. Nông cổ mín đàm sau đó đã đăng một bài diễn thuyết mang tên Cải lương hí nghệ của Lương Khắc Ninh nhằm mục đích kêu gọi cải cách nghệ thuật truyền thống, trong đó có đoạn:

Chớ chi một ít thầy hiệp lại, nhơn công chừng ít giờ tập hát theo tân thời, trước là chơi, hạ là có tiền xài, ba nữa là cải lương cái điệu hát… (Lương Khắc Ninh, 1917, tr.5).

Trong bài viết này, độc giả tinh ý sẽ thấy xuất hiện các cụm từ “hát theo tân thời”, “cải lương cái điệu hát” gây nên sự chú ý cho đông đảo nghệ nhân, nghệ sĩ và các độc giả quan tâm đến việc cách tân đờn ca tài tử ở Nam Bộ lúc bấy giờ. Mặc dù, trong suốt một thời gian dài, hai chữ “cải lương” được dùng trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội của người Nam bộ với hàm nghĩa “hiện đại hoá” nhưng phải đến năm 1917, tác giả Nguyễn Chánh Sắt mới chính thức đề cập đến khái niệm này như một thuật ngữ để chỉ về một bộ môn nghệ thuật sân khấu:

Bổn quán xin nhắc lại cho liệt vị rõ rằng bạn hát Cải Lương nầy toàn là mấy thầy trong hội Khuyến Văn tỉnh Long Xuyên làm tuồng, đều là người có học thức, chớ chẳng phải như hát bội Annam mà chúng ta xem thường tự thuở đến nay đâu… (Nguyễn Chánh Sắt, 1917, tr.2).

Dấu ấn tiên phong của Gia Định báo và Nông cổ mín đàm trong văn hóa chữ Quốc ngữ
Nam Kỳ - Saigon - Ban nhạc tài tử - carte postale. Ảnh chụp
khoảng năm 1906.

Đi cùng với sự ra đời của nhóm Cải Lương Kịch Xã của hội Khuyến học Long Xuyên, cải lương đã được khai sinh nhằm phát huy tinh thần văn hoá mới, từng bước đưa các hình thức âm nhạc phương Tây đến với công chúng ở Nam Bộ như Nguyễn Chánh Sắt (1917) khẳng định:

Vả chăng trong cuộc hát xướng mà cải lương theo lối văn minh thời đại này, thì vẫn có ba điệu: Một là Opéra (Ô-bê-ra); Hai là Opérette (Ô-bê-rết); Ba là Comédie (Cô-mê-di)… (Nguyễn Chánh Sắt, 1917, tr.3).

Từ việc phát hiện ra những hạn chế của hát bội – một loại hình nghệ thuật truyền thống già nua, đã kém dần sự thu hút với khán giả, tác giả B.T.T.V (1920), đã phác thảo những hướng đi mới mẻ và hoàn toàn khác biệt cho cải lương: Cải lương, hai tiếng cải lương hình như bây giờ đã thành câu nói đầu lưỡi của nhiều người, song giá mà hỏi đến nghĩa chữ cải lương, chắc nhiều người cũng mơ hồ không rõ. Cải lương nghĩa là bỏ điều dở, học điều hay, đổi nghề cũ ra nghề mới (B.T.T.V, 1920, tr.4). Các tác giả trên tờ Nông cổ mín đàm đều nhận ra tính cần thiết trong việc cách tân cũng như tìm ra phương hướng phát triển cho cải lương.

Cũng trong bài Thế nào là cải lương, tác giả B.T.T.V (1920) có đoạn viết: Ôi, nhà diễn kịch không chỉ là chốn mua vui giải buồn mà thôi đâu, ta có thể nói được trong nghề diễn kịch cũng đủ cả nghệ thuật, văn chương, giáo hoá nữa, mà khéo tổ chức cho hoàn toàn ra, tôi cam lòng người chắc cũng chẳng kém gì học đường, báo quán, diễn thuyết mà ta thường gọi là ba cái lợi khí văn minh vậy (B.T.T.V, 1920, tr.4). Rõ ràng, vai trò của cải lương không chỉ đơn thuần là diễn kịch trên sân khấu mà còn có thể kết hợp với các bộ môn nghệ thuật như hội hoạ, văn chương… để phát huy triệt để vai trò truyền tải thông điệp, góp phần giáo dục cho tư tưởng văn minh mới, chấn hưng văn hoá truyền thống của dân tộc.

Xét về mặt văn học, kịch bản cải lương kế thừa những giá trị từ văn học dân gian Nam Bộ với những bài hát ru, các điệu lý, câu hò thiên về thể hiện tình cảm, đậm chất trữ tình, hướng con người đến các triết lý sống nhân nghĩa, thuỷ chung. Nhưng đồng thời cũng là nơi giới thiệu các tác phẩm văn học đặc sắc đến từ các nền văn học Trung Hoa, văn học Pháp và các nước phương Tây hoặc khai thác đề tài từ đời sống thường nhật, lấy cảm hứng từ thế giới tinh thần, những cảm xúc vui buồn mừng giận của người dân ở lục tỉnh Nam kỳ lúc bấy giờ mang đến cho công chúng những điều mới mẻ, làm phong phú hoá nền văn hoá Việt Nam. Mặc dù, trong thời điểm trước đây trên báo Nông cổ mín đàm cũng chọn đăng tải một số vở kịch bằng tiếng Pháp, được dịch sang tiếng Việt, điển hình như Con khỉ hát bóng (14-11-1914), Gà Và Vịt (09-02-1915) và Nhuệ Minh Khuê (10-02-1916) nhưng đa phần đều bị hạn chế bởi văn phong cổ điển, tương tự như các kịch bản của nghệ thuật hát bội. Chúng ta có thể nhận thấy đặc điểm này qua một trích đoạn của kịch bản vở Nhuệ Minh Khuê do Nguyễn Ngọc Ẩn dịch từ vở kịch nổi tiếng Chantecler (1910) của nhà soạn kịch tài ba Edmond Rostand, với nội dung chính xoay quanh lời đối đáp giữa gà trống và chim trĩ về nhiệm vụ gáy vào mỗi buổi sáng để báo hiệu bình minh, đánh thức mặt trời và vạn vật.

Thư Trĩ viết:

Húy cha chả!

Nhuệ Minh Kê viết:

Ta gáy lên, chừng đó thì

Đêm hắc ám cầu hòa dua nịnh

Mượn huỳnh hôn hối lộ tà tây;

Dẫu thế nào, ta cũng không nghe;

Vì nghĩa nọ, ta thì cứ gáy!

Rồi phút chốc...

[…]

Hiền Sĩ: Hứ! Thánh Hiền xưa còn phải nóng, lựa là tôi. Hèn chi cổ nhơn diệt tử nhi giáo cũng phải (Lê Quang Liêm & Hồ Biểu Chánh, 1917, tr.3).

Chắc đó cũng là nguyên nhân giúp vở Vì nghĩa quên nhà tuy chẳng phải là kịch bản đầu tiên được viết bằng tiếng Việt, nhưng khi được phổ biến trên Nông cổ mín đàm lại nhận được sự quan tâm của công chúng. Thêm vào đó, kịch bản vốn được khởi xướng và viết bởi hội Khuyến Học Long Xuyên, vốn là những nghệ sĩ theo tân học, đã từng tham gia xây dựng nhiều vở kịch của Pháp trước đó nên càng được công chúng tại Nam Bộ đón nhận nhiệt thành. Báo Nông cổ mín đàm về sau cũng chọn đăng một số vở tuồng như vở Báo nghĩa (21-8-1917), Ngô Công Nhược mắc lửa của Nguyễn Khắc Nương và Nguyễn Ngọc Ẩn (24-6-1920). Những cố gắng cải cách bộ môn hát bội trên báo Nông cổ mín đàm dẫu chỉ ở bước đầu nhưng đã tạo tiền đề cho sự xuất hiện của nghệ thuật sân khấu cải lương. Cũng theo các tác giả trên Nông cổ mín đàm thì hình tượng các nhân vật trong cải lương không nên chỉ mang tính chất minh họa, tiêu biểu cho một phẩm chất hoặc lý tưởng nào đó mà phải xuất phát từ thực tế cuộc sống, khám phá con người với tất cả những chuyển biến tình cảm, khát vọng và suy nghĩ riêng tư nhất. Và từ đây, việc xây dựng các mâu thuẫn trong cải lương cũng không đi theo lối mòn cũ là câu chuyện đấu tranh nhỏ hẹp trong phạm vi cung đình, ngai vàng, các mối quan hệ vua tôi… mà hướng đến việc phản ánh những mâu thuẫn trong xã hội, các hiện tượng tiêu cực cũng như mặt trái trong các mối quan hệ cá nhân, gia đình, bạn bè…Đặc biệt, nhóm tác giả trên báo Nông cổ mín đàm cho rằng yếu tố hài kịch, dí dỏm mang tính chất giễu cợt, phê phán xã hội được đan cài vào cải lương sẽ giúp loại hình sân khấu này dễ dàng tạo dựng được vị thế đặc biệt trong lòng người hâm mộ hơn. Từ đó, lời hát trong cải lương cũng cần sửa đổi cho phù hợp hơn với nhu cầu thưởng thức cũng như thị hiếu mới của khán giả. Các tác giả (1920) đã chủ trương trên Nông cổ mín đàm:

Hát tiếng thường, không nam, không khách gì nên không kể đến nhạc. Hát tuồng diễn mà răn đời thôi (Bổn quán, 1920, tr.10).

Chủ trương này, hiểu một cách đơn giản nghĩa là dùng lời ăn tiếng nói hằng ngày, tránh những câu hát “chỉ hay riêng cho người biết chữ Nho mà thôi”, để tạo nên sự gần gũi cũng như chỗ đứng trong lòng khán giả say mê bộ môn nghệ thuật này. Tính đại chúng hóa, kêu gọi sự gắn kết của những bộ môn nghệ thuật truyền thống như cải lương đến với khán giả là một trong những biểu hiện tiến bộ, cho thấy lý luận thời kỳ này đã dịch chuyển theo mục đích đại chúng hoá với mong muốn đem nghệ thuật ra phục vụ cho cộng đồng, đưa cải lương đến gần với công chúng hơn. Cùng với việc bàn luận về cải lương, các bài phân tích trên Nông cổ mín đàm còn tỏ rõ sự tinh tế của mình khi phủ nhận quan niệm “xướng ca vô loài” trước đây, khẳng định nghề hát là một ngành nghề cần thiết, góp phần bồi dưỡng và vun đắp những cảm xúc tích cực cho bản thân con người. Chính những người nghệ sĩ, thông qua lời ca tiếng hát của mình, đã góp phần làm giàu thêm sắc màu của cuộc sống, phong phú thêm tâm hồn của con người.

Dấu ấn tiên phong của Gia Định báo và Nông cổ mín đàm trong văn hóa chữ Quốc ngữ
Các nghệ sĩ cải lương bay máy bay lần đầu ở Hội chợ
thuộc địa Paris (vườn Bois de Vincennes) 1931.

Những bài viết kêu gọi sự đổi mới của đội ngũ tác giả như Lương Khắc Ninh, BT.T.VM Lê Quang Vân… trên Nông cổ mín đàm đã góp phần thay đổi cách nhìn nhận đúng đắn, chỉ ra hạn chế và đề xuất những thay đổi cần thiết cho nghệ thuật truyền thống. Tư tưởng mới mẻ và tiến bộ trên là một bước đệm quan trọng cho quá trình hiện đại hóa, góp phần giúp văn học Việt Nam đi đúng lộ trình phát triển, dù ban đầu cũng gặp phải không ít những khó khăn và thử thách. Tuy nhiên, với tinh thần lí luận mới mẻ, hợp tình hợp lý cùng những chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội và thị hiếu công chúng, quá trình hiện đại hóa văn học vẫn diễn ra như một tất yếu. Thông qua báo chí, văn học cùng các hình thức nghệ thuật khác như cải lương… đã dần hình thành và phát triển, bước đầu có những tác động cơ bản đến đời sống chính trị, xã hội đương thời.

Không đợi mùa, hoa súng nở. Tản văn Sương Nguyệt Minh

Không đợi mùa, hoa súng nở. Tản văn Sương Nguyệt Minh

Baovannghe.vn - Cây hoa súng mọc hoang dại ở đầm hồ, ao, hay mảnh ruộng trũng để hoang. Cây súng ưa nước ngọt và làm bầu bạn với cá chuối, cá rô, cá chày, cá diếc, ốc, ếch, chão chuộc, ễnh ương... trong một thế giới nhà quê an lành, dân dã.
Tượng khổng lồ chìm trong rác và hiệp ước chấm dứt ô nhiễm nhựa của Liên Hợp Quốc

Tượng khổng lồ chìm trong rác và hiệp ước chấm dứt ô nhiễm nhựa của Liên Hợp Quốc

Geneva, Thụy Sĩ – Những ngày tháng Tám, khi trong các phòng họp của trụ sở Liên Hợp Quốc, hàng nghìn đại biểu miệt mài tranh luận về nội dung một hiệp ước toàn cầu nhằm chấm dứt ô nhiễm nhựa, thì ngay bên ngoài, một tác phẩm nghệ thuật khổng lồ lại lặng lẽ gửi đi thông điệp cấp bách không kém. “Thinker’s Burden” – tác phẩm cao gần 6 mét của nghệ sĩ kiêm nhà hoạt động người Canada Benjamin Von Wong – đã trở thành điểm tụ hội của du khách, nhà báo, và chính các nhà đàm phán.
Bộ GD&ĐT: Đề xuất bỏ bằng tốt nghiệp THCS nhằm đơn giản hóa quản lý

Bộ GD&ĐT: Đề xuất bỏ bằng tốt nghiệp THCS nhằm đơn giản hóa quản lý

Baovannghe.vn- Nằm trong nội dung phiên họp thứ 48 của UBTV Quốc hội, sáng 13/8, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục.
Văn học trong quá trình bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống

Văn học trong quá trình bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống

Baovannghe.vn - Hội Nhà văn Việt Nam vừa tổ chức Tọa đàm "Vai trò của văn học trong quá trình bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống". Sự kiện thu hút đông đảo các nhà văn, nhà thơ, nhà nghiên cứu lý luận phê bình văn học.
Thơ chắt từ nỗi đau

Thơ chắt từ nỗi đau

Baovannghe.vn - Đọc hai tập thơ đầu của Nam Thanh (Tình sen - 2020, Con đường anh hái - 2021), ngỡ như người thơ Nam Thanh đang bước đi trên con đường tuổi trẻ, mà đúng là tâm hồn anh đang còn tươi trẻ.