Diễn đàn lý luận

Đỗ Bạch Mai, một nghị lực đáng khâm phục

Hữu Thỉnh
Chuyện văn chuyện đời 07:00 | 16/08/2025
Baovannghe.vn - Thương cảm là thế, nên khi cầm bản thảo tập thơ “Người đàn bà làm thơ” của Đỗ Bạch Mai tôi vừa mừng vừa xúc động. Xúc động và cảm phục về một nghị lực hiếm có.
aa

Bế Kiến Quốc mất khi anh mới 53 tuổi, để lại một vợ và hai con nhỏ. Cả toà soạn báo Văn Nghệ đều thương tiếc anh. Đó là một người Thư ký Toà soạn mẫu mực, rất say mê và hết lòng vì công việc. Không mấy khi anh về nhà đúng giờ mà thường nán lại để bàn bạc cùng tôi và Thành Chương về các số báo tới. Anh luôn luôn tìm cách cải tiến công việc, muốn cho mỗi số báo phải mang lại cho người đọc một cái gì mới. Toàn bộ tâm trí anh đặt vào tờ báo và các công việc của cơ quan. Vì vậy anh được mọi người rất nể trọng và quý mến. Một người như thế ra đi thực sự để lại một khoảng trống khó bù đắp trong tòa soạn. Bế Kiến Quốc đi lòng chúng tôi trĩu nặng bao nhiêu thì ngoảnh lại nhìn Mai và các cháu thì chúng tôi càng xót xa bấy nhiêu. Rồi đây, mọi gánh nặng gia đình đều dồn lên đôi vai của Mai. Mọi lo toan không chỉ một sớm một chiều mà là đeo đẳng suốt cả một đời. Vẫn biết Mai là người vợ tần tảo, tháo vát, nhưng giờ đây ba mẹ con trông vào một suất lương biên tập viên thì khó khăn biết nhường nào. Ngoài nuôi dạy con còn bao thứ thăng trầm ở đời, mấy ai tính trước được.

Đỗ Bạch Mai, một nghị lực đáng khâm phục
Nhà thơ Đỗ Bạch Mai

Thương cảm là thế, nên khi cầm bản thảo tập thơ “Người đàn bà làm thơ” của Đỗ Bạch Mai tôi vừa mừng vừa xúc động. Xúc động và cảm phục về một nghị lực hiếm có. Khi hoàn cảnh bị dồn đến chân tường thì chị tìm đến thơ và chị nói “làm thơ để sống” thì tôi tin đó là điều chân thực nhất. Thơ đã giúp chị đứng dậy, can đảm sống, can đảm đối diện với thực tại. Vì thế cho nên khi chị nói:

Tôi chỉ là người đàn bà làm thơ bình thường giản dị

Trước nỗi buồn, tôi chỉ biết lấy vần thơ lau nước mắt cho mình.

(Người đàn bà làm thơ)

Tôi lập tức cảm thấy có cái gì cứa vào lòng mình, xót xa, ám ảnh khôn nguôi. Bởi đó là thứ thơ chắt ra từ máu và nước mắt. Ở đây câu nhoè đi để chỉ còn cảm thấy có thân phận, nỗi niềm. Đối với Đỗ Bạch Mai, thơ đã trở thành nơi trú ngụ cuối cùng, nơi giúp chị gạt qua nỗi buồn để đứng dậy. Đọc hai câu thơ trên, tâm thế tôi thay đổi hoàn toàn. Thơ ở đây không còn là thơ nữa mà là những lời thốt ra đứt ruột về số phận một con người. Chị nói:

Tôi nhìn thấy mình trong những con cò l

ặn lội bờ sông

Tôi là con gà mẹ đang xòe cánh tìm đàn con tao tác

Tôi là con cò mẹ đang băng qua mưa nguồn chớp bể

để về bên tổ ấm che chở cho con.

(Người đàn bà làm thơ)

Lòng người mẹ mới lớn lao làm sao. Phải gọi đúng tên đó là sự xả thân cho con cái. Câu thơ bắt đầu bằng hình ảnh xưa cũ, muôn đời, nhưng tình cảm thì quá đỗi thiêng liêng. Chỉ có mấy dòng thơ mà Đỗ Bạch Mai đã nói được cái sâu xa của tình mẫu tử.

Để trụ vững trong một gia đình thiếu vắng sự có mặt của người đàn ông, người mẹ phải bươn chải với muôn nỗi ở đời, mà trước hết là phải chống chọi với sự vây bủa của nỗi cô đơn. Nỗi cô đơn này nó vây bủa chị và theo chị suốt cả cuộc đời. Xưa nay người ta có thể làm quen với cảnh nắng mưa khó nhọc, với những kham khổ đói no, chứ mấy ai làm quen được với nỗi cô đơn. Bởi đi tới đâu, đụng tới việc gì cũng phải đối mặt với nó.

Hanh hao còn một chút này Ta đi cho hết những ngày cuối đông

Đếm từ giọt nhớ giọt mong Gom từ sợi rút ruột tằm nhả tơ

Thời gian không bến không bờ Không gian thăm thẳm cánh cò chao nghiêng

Một mình nhớ một mình quên Một mình mình với con thuyền nhỏ nhoi

(Hát lời ví dặm)

Lời thơ thì ngọt ngào mà nỗi buồn thì đắng đót. Thơ Đỗ Bạch Mai thường làm ta xúc động khi đụng đến thân phận. Đây là nỗi bất hạnh chung, ngẫm ra ở đời, được cái này thì mất cái khác, chẳng mấy ai được tròn trịa, viên mãn. Ông trời không cho ai tất cả mà cũng không lấy đi của ai tất cả. Thế cho nên “nhà giầu cũng khóc”. Có lẽ chính vì thế mà Đỗ Bạch Mai có bài thơ.

“Dưới gốc hoa anh đào”, cấu tứ rất chặt mà ý tứ rất sâu. Bài thơ thật hàm súc và có dư vang. Vì bài thơ không dài, hơn nữa để bạn đọc thấy hết sự phát triển tuần tự của bài thơ, tôi xin phép chép nguyên văn bài thơ như sau.

Dưới gốc hoa anh đào

Lặng lẽ đến ngồi bên

Anh đào đang bừng nở

Hình như ta là người cuối

Anh đào nở kỳ cùng

Ta là người đến muộn

Hết xuân thì

Vẫn còn một bông

Đậu xuống tay ta

Thầm thì hát

Tôi đọc bài này mà thấy mừng cho Mai. Vì thấy lòng em đã ấm lại. Bởi vì nước mắt đã làm đủ nhiệm vụ của nó rồi. Vấn đề còn lại là phải tiếp tục sống. Mà cuộc sống thì gian nan, có lẽ, trớ trêu đến mức người giầu nghị lực đến đâu cũng không thừa. Người đến muộn mà bông hoa cuối cùng vẫn hát, triết lý là gì vậy? Cái hay của bài thơ không dừng ở cách nói, mà chính là sức gợi. Đọc bài này tôi thấy con người thi sĩ đã vượt lên con người thường ngày. Dù cho cay đắng bao nhiêu thì sự tự thắng mình vẫn đáng quý nhất.

Trong mạch cảm xúc này, bài “Ngọn lửa” cũng là bài thơ khá trong tập. Nỗi nhớ thương ở đây đã khơi được nguồn mới. Bài thơ dung dị, khiêm nhường nhưng thật gan góc. Một ngọn đèn thách đố cả mùa đông. Ngọn đèn ấy là trái tim Mai đấy. Nó có thể là tình yêu mà cũng là tất cả. Bài thơ đọc lần đầu không thấy gì mấy nhưng đọc đi đọc lại nhiều lần, thì thấy đời Mai đấy. Đó là cuộc đời người vợ hiến dâng cho cả cuộc đời dằng dặc của chồng. Tôi đoán khi làm bài này, Mai đã phải thử bút nhiêu lần. Lúc đầu thì kể lể có vẻ dài dòng, sau chốt lại cái phần quan trọng nhất, nguyên văn là thế này.

Ngọn lửa

Em là ngọn lửa trong chiếc đèn xách tay của anh

Đèn không đủ sáng Ngọn lửa không đủ ấm

Nhưng là người bạn đường trong đêm đông.

Từ thân phận của cá nhân, Đỗ Bạch Mai mở dần cảm xúc của mình ra với xã hội, với trời đất. Không chỉ được mở rộng, tình cảm trở nên khoáng đạt, làm tăng thêm giá trị nhân văn của tập thơ. Điều đó chứng tỏ sự trưởng thành trong nhân cách văn hóa của nhà thơ. Ta thấy một Đỗ Bạch Mai đa cảm, quan tâm đến mọi sắc thái ở đời. Mặc dầu chị hay nói đến mùa đông mà ta đọc lại thấy ấm; mặc dầu chị hay nhắc đến nỗi buồn nhưng ta thấy chị đang đứng lên và đứng vững bằng đôi chân của mình.

Phải sống để cho con vẫn còn người gọi bằng mẹ

Phải sống để khi con định làm việc gì con còn nghĩ

mình còn có mẹ già

Phải sống để còn viết văn làm thơ và trả nợ

Phải sống để biết rằng sự độc ác vẫn còn ngự trị nhưng

không thể bẻ cong sự thật và chôn vùi cái đẹp.

(Tự nhủ)

Câu thơ vang lên một trách nhiệm, một cách nhìn đời của một cột trụ gia đình. Phải thế chứ. Tình thương đặt đúng chỗ. Và cách nhìn đời thật bình tĩnh và chắc chắn, khiến ta vừa cảm phục vừa cảm động. Tác giả đã nói tất cả những điều đó vô cùng giản dị và chân thực. Đó là nỗi niềm thật của chị mà cũng là nghệ thuật cao nhất của thơ ca. Ta quên chữ quên câu để chỉ còn tiếp nhận nguyên vẹn cái tình của chị. Trong bài “Trong nỗi buồn” ta có dịp gặp lại những tình cảm thật vị tha, khoan dung và đầm thắm của chị.

Trong nỗi buồn

Tôi cảm thấu được sự bất hạnh của những người

không nhà cửa, của những người tha hương,

của những người kề cận với cái rét với cái chết cô đơn

Hóa ra mình vẫn còn may mắn

Trong nỗi buồn

Tôi thấy tôi đằm xuống dịu dàng yêu thương

(Trong nỗi buồn)

Ta tin sự thành thực của Mai. Chị không chỉ “đằm xuống dịu dàng yêu thương” mà chị đã thực sự bắt tay vào hành động. “Hãy đứng lên / tách vỏ / bước ra với mùa xuân” (Đồng vọng). Nhưng cuộc đời phức tạp và dữ dằn đến mức nó luôn đem đến cho ta những trăn trở, ngang trái vô cùng, như muốn thử thách đến cùng bản lĩnh của mỗi chúng ta.

Tôi nhớ vào cuối năm 2020, Mai có đến gặp tôi ở Hội Nhà văn Việt Nam và cho biết gia đình đang gặp khó khăn. Tôi có ghé vai đỡ Mai được một chút. Nhưng sau đó là Đại hội Nhà văn lần thứ X tôi nghỉ công việc quản lý và nghỉ hưu. Tiếp đó là những năm covid. Tôi ở nhà đọc và viết, thỉnh thoảng Mai có gọi điện cho tôi, bàn về công việc của các cháu. Tôi đinh ninh những khó khăn của Mai đã được tháo gỡ. Không ngờ những năm 2021, 2022 là những năm khó khăn nhất của mẹ con Mai. Đến nay, đọc bài thơ “Rằm tháng bảy” in trong tập thơ này tôi mới thật giật mình

Rằm tháng bảy

Không về được

Nhà đâu mà về

Khói hương Trong lòng con nghi ngút

Con là ngôi nhà Đón cha mẹ cùng về

(Rằm tháng bảy 2021)

Thế mới biết nghị lực của Mai mạnh mẽ, kiên cường biết chừng nào. Trong một bài thơ khác, bài “Chạm đáy” tác giả cũng nhắc đến cảnh túng quẫn của mình nhưng vẫn ánh lên tình yêu thương con người

Chạm đáy

Không cần phải lắc

Trong túi lúc nào cũng rỗng không

Nỗi buồn rớt xuống đáy

Chạm đáy yêu thương Chạm cuối con đường.

Trong hoàn cảnh khó khăn chạm đến đáy của sự bất hạnh, chị vẫn tự dặn mình

Đừng chán

Nếu chán sẽ buông bỏ tất cả Mà còn bao nhiều việc phải làm

(Đừng chán)

Dẫu sao vẫn phải đứng vững trên đôi chân của mình thôi. Hơn ai hết, Mai hiểu rõ điều đó. Tự cứu là việc đáng trọng. Nhưng đáng trọng hơn là trong lúc tự cứu mình vẫn dành trái tim để lo âu, chia sẻ cho người khác. Tấm lòng cao thượng đáng cảm phục là vì vậy. Những bài thơ của Mai viết về mẹ, về bà ngoại, về bạn bè, về bé Vân An... Chân thành và cảm động biết bao. Tất cả giúp tôi nhận ra vẻ đẹp và sức sống của tâm hồn Mai. Gọi đó là lòng vị tha, sự cao thượng, sự khoan dung… gì gì đó cũng được. Riêng tôi muốn gọi là một hồn thơ đích thực. Bởi vì chị tin rằng

Sẽ còn rung lên đến nhịp cuối cùng

Với một niềm tin: cho đi là đón nhận.

------------------

Bài viết được rút ra từ tập "Ám ảnh chữ" của nhà thơ Hữu Thỉnh

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn
Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Mâm trên mâm dưới - Truyện ngắn của Trần Quốc Hoàn

Baovannghe.vn - Dòng họ Vũ quyết xây lại nhà thờ. Nghe đâu chi phí gần hai chục tỉ, nhất định phải hơn đứt cái nhà thờ mười bốn tỉ rưỡi mới khánh thành của họ Phan. Cả làng xôn xao. Người mừng, người lo. Mừng thì ít mà lo thì nhiều.
Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Nguyễn Du và tiếng Nghệ

Baovannghe.vn - Xứ Nghệ là tên gọi quen thuộc chỉ vùng đất thuộc hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh ngày nay. Cách gọi này chắc có từ khi cả vùng đất đều thuộc trấn Nghệ An, và sau năm 1831, khi đã có tỉnh Hà Tĩnh thì vẫn được dùng cho đến ngày nay.
Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Xuyên đêm chở sách mới về vùng lũ

Baovannghe.vn - Khi mặt trời còn chưa ló rạng sau những ngôi nhà đổ nát bởi trận lũ lịch sử, chuyến xe chở 400 thùng sách giáo khoa mới của Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam (NXBGDVN) đã vượt hàng trăm cây số, xuyên đêm để kịp về với học sinh xã Hòa Thịnh (tỉnh Đắk Lắk).
Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Thông cáo báo chí số 35 Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV

Baovannghe.vn - Thứ Năm, ngày 4/12/2025, ngày làm việc thứ 35, Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XV diễn ra tại Nhà Quốc hội, Thủ đô Hà Nội.