|
- Cháu có biết không, cây Lau cũng có hồn, có vía đấy. Vì thế, cây Lau mới sinh ra lá sắc như dao, như kiếm để bảo vệ hoa Lau. Cháu còn đi ngắt hoa Lau thì còn có ngày bị lá Lau cắt cho đau hơn nữa!
- Làm sao mà cây hoa Lau có hồn, có vía được ông ơi? - Tôi tròn xoe mắt nhìn ông đầy vẻ nghi ngờ.
Ông bảo:
- Cũng như người ta, cây cỏ đều có hồn, có vía đấy cháu ạ!
Rồi ông kể cho tôi nghe câu chuyện về Hồn Lau.
Chuyện ông kể rằng, ngày xửa ngày xưa, từ thời dân mới ở thành làng, thành bản, nước mới có vua tôi, địa giới, có một đôi trai gái yêu nhau thắm thiết lắm, nhưng họ chưa kịp thành chồng thành vợ thì đất nước có giặc ngoại xâm. Theo lệnh vua ban, chàng trai phải lên đường đi đánh giặc. Hôm chàng trai lên đường ra trận, cô gái tiễn người yêu ra tận con suối nơi đầu đồi, cuối núi. Trước khi dứt áo ra đi, chàng trai cầm tay người yêu mà hẹn rằng: Em ở lại nhà gắng đợi, cùng lắm chỉ 3 mùa lúa chín anh sẽ trở về. Đến lúc đó, đôi ta sẽ kết tóc xe tơ, thành chồng thành vợ, cùng nhau xây dựng tổ ấm gia đình!
Nói rồi, chàng trai dứt áo ra đi.
Thế rồi từ đó, cứ chiều chiều, cô gái ra ngồi bên bờ suối ngóng đợi người yêu. Hết một mùa lúa chín cũng là một năm ròng, hết hai mùa lúa chín cũng là hai năm ròng, hết ba mùa lúa chín cũng là ba năm ròng, mà chàng trai chưa trở về. Không biết bao nhiêu mùa lúa chín đã qua, chàng trai vẫn chưa trở về. Không biết bao mùa lúa chín đã qua, cô gái vẫn chiều chiều ra ngồi bên bờ suối ngóng đợi người yêu. Không biết bao mùa lúa chín đã qua, mái tóc cô gái đã bạc trắng như làn mây trên bầu trời lúc hoàng hôn.
Rồi một ngày, cô gái không trở về nhà nữa. Hôm sau, dân làng tìm đến bờ suối, thấy nơi cô gái vẫn ngồi đợi người yêu đã đùn lên một đống mối. Bên cạnh đống mối mọc lên một bụi cỏ thân cao, lá xanh vuốt dài như thanh kiếm, cạnh lá sắc như dao. Đến mùa lúa chín, bụi cỏ thân cao trổ ra những nhành hoa trắng màu mây, trông như lọn tóc bạc của cô gái phất phơ bay trong gió khi ngồi đợi người yêu.
Dân làng đặt tên cho loài hoa đó là hoa Lâu, lâu dần, người ta đọc chệch đi thành hoa Lau. Người ta bảo, những nhành hoa Lau trắng màu mây chính là những lọn tóc bạc của cô gái phất phơ bay trong gió khi ngồi đợi người yêu hóa thành. Màu trắng của hoa cũng là biểu hiện của sự trong trắng, trinh nguyên, của tấm lòng thủy chung, son sắt của cô gái. Những nhánh lá sắc như dao, như kiếm là hồn vía của chàng trai hóa thành để bảo vệ người mình yêu, bảo vệ vẻ đẹp tha thướt, mong manh của những nhành hoa Lau.
Câu chuyện ông tôi kể về hoa Lau trở thành một nỗi ám ảnh, đi theo tôi suốt những năm tháng cuộc đời. Tôi đã đi qua nhiều vùng quê trên khắp các miền của đất nước, ở đâu cũng thấy hoa Lau. Hoa Lau bạt ngàn trên biên giới phía bắc suốt từ A Pa Chải (Điện Biên) đến Bình Liêu, Móng Cái (Quảng Ninh). Hoa Lau phơi sắc trắng trên những vùng đồi núi Việt Bắc, Tây Bắc, miền Trung, Tây Nguyên. Hoa Lau mọc thành vạt, thành bụi bám theo dọc những bờ suối, bãi sông, ra đến tận nơi cửa sông, cửa bể. Hoa Lau kiêu hãnh trước giông gió trên những hải đảo Bạch Long Vĩ, Cô Tô, Cồn Cỏ, Lý Sơn, Phú Quốc, Thổ Châu... Hoa Lau lặng lẽ bên những góc vườn, bờ giậu nơi thôn dã bình yên. Ở bất cứ đâu trên đất nước mình, nơi đồi đất cằn cỗi hay bãi bồi phì nhiêu, nơi nắng lửa, mưa dầm hay sương tuyết, lạnh giá, Lau vẫn sống mãnh liệt, vẫn thản nhiên dâng sắc trắng mỗi mùa hoa.
Tôi đã đến nhiều đất nước ở các châu lục, đã được thấy hoa Lau ở đâu đó trên những sườn đồi, chân núi, bãi sông hay bên những nẻo đường, những vạt rừng nhiệt đới. Ở Thủ đô một vương quốc phía bắc châu Phi, bên bờ Địa Trung Hải, hoa Lau còn được trồng trong những bồn hoa ở những công viên hay hai bên đường phố, được chăm chút để cả vạt hoa Lau nở ra trắng muốt, xốp nhẹ, bồng bềnh như sương khói mỗi khi có làn gió nhẹ thổi qua, đẹp đến thơ mộng. Nhưng chẳng ở đâu, hoa Lau có hồn vía như ở đất nước ta.
Giờ đây, mỗi khi đi qua một triền núi, một bãi sông, trên khắp những dặm dài đất nước, bắt gặp những vạt hoa Lau trắng phất phơ bay trong gió, tôi lại như thấy dáng người con gái năm xưa hóa thân trong bông hoa Lau, trong làn sương bảng lảng chiều quê. Mỗi bông hoa Lau trắng phơ phất trong gió như lời nhắn gửi của những linh hồn đã hóa thân vì tình yêu và Tổ quốc.
Vẫn biết, câu chuyện ông tôi kể về Hồn Lau chỉ là sản phẩm của trí tưởng tượng của dân gian. Song có trí tưởng tượng nào mà không bắt nguồn từ đời sống hiện thực. Bởi thế, sẽ chẳng có câu chuyện Hồn Lau nếu không có những cuộc chiến tranh gian khổ, hi sinh để đánh đuổi ngoại xâm, bảo vệ bờ cõi của đất nước, bảo vệ cuộc sống bình yên của người dân trong suốt chiều dài lịch sử những ngàn năm của dân tộc. Sẽ chẳng có câu chuyện Hồn Lau nếu không có biết bao nhiêu người mẹ, người vợ, người yêu, đã mòn mỏi đợi chờ người ra trận, có khi là cả cuộc đời, mà không biết đến ngày người thân trở về.
Tôi lại nhớ đến những câu thơ da diết buồn trong bài thơ Hoa Lau của nhà thơ Trương Nam Hương:
Người cô đơn cả bóng người,
Lau thao thức bạc chỏm trời
phơ lau,
Sâu từ thơ thẳm niềm sâu,
Buồn từ lơ lắc nghiêng đâu
cũng buồn.
Vẫn biết, xưa nay, các bậc thi nhân có ai nhìn hoa Lau mà bảo rằng vui bao giờ. Nhưng có những nỗi buồn đã thành một phần tâm hồn của dân tộc, khiến lòng người sâu lắng hơn, nhân hậu hơn và đằm thắm hơn. Như những khối đá vô tri được Nhân dân thổi hồn vào để thành những hòn Vọng phu, những tượng đài về tình người nơi khắp miền đất nước. Hồn Lau cũng là tượng đài - tượng đài của lòng thủy chung, sự đợi chờ và hi sinh lặng lẽ của những người mẹ, người vợ, người yêu đã gánh chịu nỗi buồn đau riêng vì cái chung lớn lao hơn, cao cả hơn. Và Hồn Lau ấy còn là kí ức của dân tộc về tình yêu chung thủy và niềm tin sắt son; là khúc ngân dài của tâm hồn Việt, mạnh mẽ mà kiêu hãnh, bền bỉ mà trong trẻo, như chính sức sống của loài Lau - dẫu bão tố, dẫu thời gian, vẫn nở trắng trời mỗi độ mùa về.