Sáng tác

Kỉ niệm 95 năm ngày phụ nữ Việt Nam (20/10/1930 - 20/10/2025): Mẹ tôi là nông dân

Nguyễn Minh Ngọc
Tản văn 06:00 | 20/10/2025
Baovannghe.vn - Cái mảnh làng thuần nông, dọc hai bên đê La Giang, nơi có chợ Trổ - một ngôi chợ lâu đời, thuở trước có tên là Nhân Thọ, tổng Yên Hồ (huyện La Sơn, phủ Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh) sau đổi thành xã Đức Nhân, ấy là quê mẹ tôi.
aa

Làng có hai dòng họ nức tiếng là họ Hoàng và họ Phạm. Từ ngôi làng này, chàng thanh niên Hoàng Xuân Hãn (1908-1996) đậu Thành chung, ra Hà Nội học trường Bưởi. Một trí thức cùng họ, cùng làng nữa là giáo sư Hoàng Xuân Nhị (1914-1990), người liên tục 26 năm làm Chủ nhiệm Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Dòng họ Phạm ở Nhân Thọ có cụ Phạm Khắc Hòe (1902-1995) cựu Ngự tiền Đổng lý Văn phòng của Bảo Đại, sau tham gia kháng chiến, giữ chức Đổng lý Văn phòng Bộ Nội vụ, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Kỉ niệm 95 năm ngày phụ nữ Việt Nam (20/10/1930 - 20/10/2025): Mẹ tôi là nông dân
Người mẹ tầng lớp nông dân ở thời Pháp thuộc. Tranh của Victor Tardieu (1870-1937) vẽ năm 1925

Theo thứ bậc trong dòng tộc, mẹ tôi gọi cụ Hòe bằng anh. Nhưng mẹ tôi là nông dân. Ông bà ngoại tôi đông con, mẹ tôi là thứ năm. Ông ngoại mất sớm, một tay bà ngoại nuôi lớn cả 9 người con vẹn toàn. Thừa hưởng gen trội của bà ngoại, mẹ tôi vóc dáng nhỏ nhắn, nhưng rất giỏi công việc đồng áng, thạo cày bừa, gieo vãi, cấy hái, thu hoạch; lại thêm nghề canh cửi. Người biết đọc biết viết nhờ phong trào “Bình dân học vụ”, chứ đâu có được tới trường. Ấy vậy nhưng bà làm tính nhẩm rất nhanh và thành thạo. Hồi nhỏ đi học, tôi ngán ngẩm môn toán, nhưng khi nghe mẹ đọc câu lục bát: Muốn tính diện tích hình thang/ Đáy lớn, đáy nhỏ, ta mang cộng vào/ Rồi đem nhân với chiều cao/ Chia đôi lấy nửa thế nào cũng ra, thì lại thấy hay hay. Và mẹ tôi còn có cả kho truyện cổ, thuộc nhiều ca dao, tục ngữ. Cứ mỗi lần về thăm ngoại, tôi lon ton theo sau, được nghe mẹ kể không biết bao nhiêu là chuyện, thích mê quên cả độ đường. Có lẽ, nhờ vậy, mà nguồn mạch văn chương thấm vào hồn tôi từ bé.

Năm 17 tuổi, mẹ tôi đã có chuyến “xuất ngoại” đầu tiên. Ấy là đi dân công hỏa tuyến, gánh gạo sang Lào cho quân tình nguyện Việt Nam đánh giặc. Ròng rã nửa năm trời, khi về đến nhà thì được lĩnh một trận ốm “thập tử nhất sinh”, mái tóc dài chấm gót, rụng trụi. Bà ngoại tôi kể, ngày ấy ai gặp mẹ cháu, thấy đầu trọc lóc cứ tưởng đâu “sư cụ” mới ghé nhà! Mãi sau này, nhiều lần, người quen giục kê khai để hưởng “chế độ” tham gia kháng chiến, mẹ tôi chỉ cười và lắc đầu chứ không chịu làm.

Cha tôi là con út. Mẹ tôi về làm dâu ông bà nội, thì cứ một bằng một bát, phụng dưỡng bố mẹ, trân quý anh em họ mạc, trên dưới phân minh. Các cụ đặc biệt quý dâu út bởi đức tính siêng năng, cần cù, đảm đang mọi việc trong nhà nhưng tịnh không một lời ta thán. Từ việc sàng sảy, chắt chiu từng hạt lúa, củ khoai, đến giỗ chạp, Tết nhất cúng kiếng, cỗ bàn đâu ra đó. Quê nội tôi, đính ngay bên dòng Lam biếc xanh, phía hữu ngạn. Tuy làng không có ruộng liền thổ, nhưng đất phù sa cánh bãi tốt ngờm ngợp. Thóc gạo ít, nhưng ngô, khoai, đậu, lạc… thì ê hề.

Ngày ấy, nhà tôi gọi là có “của ăn, của để”. Cha tôi học giỏi, tháo vát, biết nghề mộc, lại thạo việc gò tôn thiếc. Ông là một trong vài người đầu tiên ở làng có “nhà ngói, cây mít”, mỗi năm trữ vài chục chum mật mía, hàng tạ đường phèn. Vậy nhưng năm 1960, cha tôi dám bỏ để theo đường học vấn, ông vào Học viện Thủy lợi Điện lực (nay là Trường Đại học Thủy lợi). Khi tôi vừa nhận biết xung quanh, thấy trên hiên nhà có đặt một khung dệt vải bề thế. Mỗi lứa nhà nuôi chục nong tằm. Dâu trong vườn không đủ lá thì sang hàng xóm hái về. Cái câu “ăn như tằm ăn rỗi”, tôi biết từ ngày ấy. Tằm chín, bà nội tôi bắc gạch, kê nồi trước sân ươm kén, quay xa kéo sợi. Cụ vớt ra từng mớ nhộng tằm vàng, béo ngậy. Mẹ tôi ngồi khung cửi, tóc búi gọn sau gáy, tay đưa thoi, chân đạp bàn go, dẻo và đều như múa. Buổi sáng, nghe tiếng thoi đưa lách cách, thú thật không muốn rời khỏi nhà. Nhưng cái sự thanh bình êm ả cũng chỉ được vài năm ngắn ngủi. Sau ngày 5-8-1964, không quân Mỹ đánh phá ác liệt vùng khu Bốn, làng tôi trong tầm bom đạn. Mẹ ngưng dệt vải. Khung cửi phải dỡ bỏ để lấy gỗ làm đà đắp hầm trú ẩn. Hôm dẹp khung cửi, mẹ tôi bỏ ra bờ sông kiếm ra dại, lúc về cứ tần ngần như vừa đánh mất vật gì quý giá, bà lặng người đến cả tuần lễ.

Đồng đất bờ xôi ven sông, cả làng trồng mía nấu mật. Nghề trồng mía như mẹ tôi vẫn kể ấy là nghề “xát xương”, cực nhọc. Hằng năm, vào cữ heo may, là mùa kéo mật. Công đoạn cầm che ép mía bội phần vất vả và nguy hiểm, hầu như đó là phần việc của cánh lực điền. Đàn bà, con trẻ, chỉ ngồi phía sau che hốt bã mía. Nhưng với mẹ tôi thì khác, bà ung dung vừa ngồi cầm che, lại vừa lẩy Chinh phụ ngâm. Những là: Mẹ già phơ phất mái sương/ Con thơ măng sữa vả đương phù trì/ Lòng lão thân buồn khi tựa cửa/ Miệng hài nhi chờ bữa mớm cơm/ Ngọt bùi thiếp đỡ hiếu nam/ Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân… khiến cánh mày râu mắt tròn, mắt dẹt. Việc đút từng đoạn mía vào che thì quá đơn giản, nhưng từ lượt hai, lượt ba trở đi, khi lắp mõ vào che mới đòi hỏi kỹ năng thuần thục. Thao tác phải nhanh, gọn, chuẩn xác. Chứ lóng ngóng, thì bã vào mõ che bị nghẹn ặc, nặng quá khiến trâu kéo bể vai, nhẹ hều thì không kiệt nước. Chỉ cần nghe tiếng mõ che ngân nga, lúc bổng, lúc trầm, là biết người cầm che giỏi. Có người vụng về bị che nhai nát cả bàn tay. Rồi đến công đoạn lọc chè và nấu mật, mẹ tôi làm nhẹ như không. Chảo mật sánh đậm màu cánh gián, trong veo.

Làng nằm ngoài đê, thuộc vùng đất lụt, mỗi năm có nhiều trận “hồng thủy” lớn nhỏ. Cha tôi thoát ly, mình mẹ gánh vác tất. Bà muối dưa, cà, làm tương, ngon thôi rồi. Từ cuối hè, mẹ đã lo tích trữ dầu đèn, gạo củi, thực phẩm... Nhà có một khoang chạn, rộng chừng chục thước vuông, tựa như căn gác xép của người thành phố vậy. Lụt lớn, già trẻ rút lên đấy trú ngụ. Nhà nuôi một con nghé tơ của hợp tác xã để lấy công điểm, mẹ kêu người xe đất đắp một cồn cao, lợp mái, quây hẳn cả cây rơm, đủ cho nghé nhằn vài tháng. Lại mua sẵn vài bó nứa to, dựng đầu nhà. Tiết thu, nhìn sắc trời, cha về, mẹ hối chặt tre già để gông mái, chằng níu nhà cửa cẩn thận.

Thường ngày, dòng Lam vốn hiền hòa, nhưng hễ mưa lụt, thì con sông trở nên đáng sợ. “Mãnh hổ như hà”. Mẹ đóng bè nứa, đốn vài cây chuối hột kết vào hai bên. Trên bè quây che chỗ nhốt lợn, nhốt gà. Nước dâng tới đâu thì bè neo nổi tới đó. Trong khi nhiều hộ, đàn ông sức dài vai rộng, nhưng lụt về thì cuống quýt, bị nước cuốn mất vật nọ hoặc trôi mất cái kia. Mẹ tôi dầm nước, kê bếp lên cao, bắc thang đứng nấu nướng, lo cái ăn cho đàn con. Nhiều lúc, tôi cứ lẩn mẩn tự hỏi, không hiểu mẹ học ai, học ở đâu và tự khi nào, bà lấy đâu ra sức lực để cáng đáng một khối lượng công việc nhiều đến vậy, mà trơn bót ngọt lạch.

Làng tôi nằm đối diện với Nhà máy đường Sông Lam, bên tả ngạn, nép dưới chân Rú Thành lừng lững. Đây là một trong những mục tiêu hủy diệt của không quân Mỹ trong chiến tranh phá hoại lần thứ nhất. Nhưng muốn thả bom và bắn roc-ket trúng nhà máy, vướng núi cao như bức trường thành, nên đám phi công Mỹ chỉ duy nhất có một hướng, là căn ke bay tới đầu làng tôi thì nhào xuống cắt bom hoặc xả đạn rồi ngóc lên vọt lẹ, biến nhanh. Bởi vậy, làng trở thành cái túi bom khổng lồ. Ấy là chuyện ban ngày, còn ban đêm, tàu bay vẫn ì ầm vãi bom đạn xuống làng. Cùng với gỗ khung cửi, cha đốn thêm tre làm hầm chữ A, hồi ấy quen gọi là hầm “Triều Tiên”, chắc là học kinh nghiệm của xứ Bắc Hàn. Thấy chừng chưa đủ, mẹ còn hì hục đào thêm hầm rộng dưới phản ngủ, có lối dẫn ra hầm chữ A. Đêm đêm hễ nghe kẻng báo động thì mẹ quờ tay lôi đàn con lăn tòm xuống hầm mà chả làm sao. Sáng quét nhà gom được cả rá viên bi tròn ve sáng loáng, ngoài sân, mảnh bom văng còng queo, sắc lẹm. Nhưng được cái mẹ con, bà cháu an toàn.

Thuở nhỏ, tôi nhiều lần phạm lỗi nên hay bị mẹ đánh đòn, nhưng chẳng hề giận. Mẹ dạy anh em tôi sống thiện lành, tích đức và tự lập, không dựa dẫm, ỉ lại.

Năm nay, mẹ đã vào U100, nhưng trộm vía, trí nhớ cụ còn khá. Từ lâu, mẹ vẫn thường nhắc con cái là “của DÂN có nọc”. Vắn gọn vậy, nhưng anh em tôi luôn nhớ và ngửng cao đầu, không dám trái lời cụ!

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Tự ngẫu - Thơ Lại Duy Bến

Baovannghe.vn- Đi/ những bước đi chỉ có thế thôi./ tôi quay lại ướm vào vết cũ
Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Hà Nội trở thành thành viên “Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu”

Baovannghe.vn - Ngày 4/12, Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) đã chính thức công bố 72 thành phố của 46 quốc gia, trong đó có Thủ đô Hà Nội của Việt Nam được công nhận là thành viên Mạng lưới các Thành phố học tập toàn cầu của UNESCO.
Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Đại biểu Quốc hội đề nghị: Tạo điều kiện để Báo chí vận hành dựa trên công nghệ

Baovannghe.vn - Trong phiên làm việc ngày 4/12, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Báo chí (sửa đổi).
Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Đọc truyện: Một ngày nói tiếng người - Truyện ngắn của Hoàng Hải Lâm

Baovannnghe.vn - Giọng đọc và hậu kỳ: Hà Phương; Đồ họa: Thùy Dương; Biên tập: Phạm Thị Hà
Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Trái tim của đất - Thơ Nguyễn Thánh Ngã

Baovannghe.vn- Cứ ngỡ đất vô hồn/ Cứ ngỡ đất vô ngôn